HỒ CHÍ MINH HUYỀN THOẠI VÀ MẶT NẠ

HỒ CHÍ MINH HUYỀN THOẠI VÀ MẶT NẠ

Friday, June 29, 2012

HỒ CHÍ MINH VII * NHÀ LÃNH ĐẠO KIỆT XUẤT

CHƯƠNG VII






CHƯƠNG VII

MỘT NHÂN CÁCH LỚN, 
MỘT NHÀ LÃNH ĐẠO KIỆT XUẤT

 Đây là nhan đề quyển Hồi Ký của Trường Chinh ca tụng "bác". Từ năm 1923, cuộc đời Nguyễn Tất thành đã sang ngả rẽ.Lịch sử cộng đảng cho rằng Nguyễn Tất Thành đã sang Liên Xô và trở thành nhân vật quan trọng trong Quốc tế III. Tài liệu lịch sử cộng đảng ghi rằng Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XVIII đảng Xã hội Pháp họp từ ngày 25 đến ngày 30-12-1920, tại thành phố Tua (Pháp), đã tranh luận gay gắt về việc gia nhập Quốc tế III hay ở lại Quốc tế II, thành lập Đảng Cộng sản, hay giữ nguyên Đảng Xã hội.Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành tham gia Quốc tế III Quốc tế Cộng sản, trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, và Người cũng trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên.
Nguyễn Thế Truyền tham gia đảng Xã hội và là người theo đảng Cộng sản Pháp. Có lẽ Nguyễn Tất Thành và Cộng đảng cũng nhận vơ cho Nguyễn Tất Thành vì Nguyễn Tất Thành đã tiếm danh Nguyễn Ái Quốc như đã trình bày ở các chương trước.
Năm 1923, Nguyễn Tất Thành với danh Nguyễn Ái Quốc sang Liên Xô, các tài liệu cộng đảng Việt Nam nói là ông được người Nga tôn trọng nhưng sự thật không phải thế. Việt Cộng nói rằng ông được tại Đại học Phương Đông. Wikipedia cũng không thống nhất. Một Wikipedia viết rằng Tháng 6 năm 1923, Nguyễn Ái Quốc đến Moskva học tập tại trường Đại học Phương Đông của Quốc tế Cộng sản (Wikipedia. Hoạt động của Hồ Chí Minh trong giai đoạn 1911-1941), và tại Đại hội lần thứ 5 Quốc tế Cộng sản ông được cử làm ủy viên Ban Phương Đông, phụ trách Cục Phương Nam,nhưng  chú 16 của bài này cho biết trong Thư của Nguyễn Hưng Đạt từ Matxcơva đăng trên BBC, ông Đạt cho hay "Ông Nguyễn chưa bao giờ là Cục trưởng Cục Phương Nam của Quốc tế Cộng sản III như báo Nhân dân 05.09.1969 nêu" và "Cũng không thấy có cái Cục này trong Kho lưu trữ Liên bang, phần Tài liệu về các Quốc tế Cộng sản II và III."
Một Wikipedia viết: Tháng 6 năm 1923, Nguyễn Ái Quốc đến Moskva học tập tại trường Đại học Lao động Cộng sản Phương Đông (Wikipedia- Hồ Chí Minh).
Tại liệu Việt cộng ghi rằng  trong khi chờ đợi Đại hội V Quốc tế Cộng sản khai mạc và chờ lên đường về châu Á, Nguyễn Ái Quốc được nhận vào làm cán bộ của Ban Phương Đông Quốc tế Cộng sản (theo giấy xác nhận do Pêtơrốp ký ngày 14-4-1924).  của Wikipedia trong bài "Hoạt động của Hồ Chí Minh trong giai đoạn 1911-1941". Tại Việt Nam có một số người theo học trường Đại học Đông Phương như Trần Văn Giàu, Dương Bạch Mai, Bùi Công Trừng.. . còn Nguyễn Tất Thành không học trường Đại Học Đông Phương có lẽ vì văn hóa kém, mà chỉ học trường Công Nhân.

  Mặc dù tài liệu cộng đảng giấu chuyện Hồ xuất thân từ trường Stalin nhưng mới đây thư khố Nga giải mật, cho ta biết là gần hết cán bộ cao cấp của đảng VC , trong đó có Nguyễn Ái Quốc, đều xuất phát từ lò ‘Viện Thợ Thuyền Ðông Phương’tức trường Công Nhân. Trường này được Lenin thành lập ngày 21-4-1921, để huấn luyện các cán bộ cộng sản vùng Châu Á, nên gọi là Viện Phương Ðông, là một trường sơ cấp hay trung cấp chứ không phải đại học. 

Sau khi tốt nghiệp, những học viên sẽ trở thành cán bộ cách mạng vô sản chuyên chính về mặt lý thuyét cũng như hoạt động móc nối, tuyên truyền và thu thập tin tức từ quần chúng. Có thể coi như trường này dạy kỹ thuật tuyên truyền và làm gián điệp.

Sophie Quinn Judge cho rằng việc Tất Thành có vai vế trong đảng Cộng sản Pháp và trong các đại hội Cộng đảng Liên Xô là điều khó tin. Trả lời BBC, bà viết lại trong tác phẩm" Những Tháng Năm Mất Tích "  HO CHI MINH, THE MISSING YEARS như sau:

BBC: Khi ông Hồ tới hội nghị hòa bình Versailles 1919, người ta nhìn ông Hồ như thế nào?
Đây là một điều mà chúng ta rất khó biết chắc bởi vì có một khoảng trống lớn trong tiểu sử của
ông Hồ. Chúng ta không biết trước năm 1919, ông Hồ hoạt động ở mức độ nào, chuyện chính trị có phải là vấn đề bận tâm duy nhất của ông hay không.

Nên khi ông xuất hiện tại hội nghị Paris tháng Sáu năm 1919, phân phát bản kiến nghị cho các đ
ại biểu tham dự, mọi người thấy khó chấp nhận ông ấy như một nhân vật ngang hàng với những người nổi tiếng như Phan Chu Trinh hay Phan Văn Trường.
 

 BBC: Sau hội nghị ở Paris, ông Hồ đến Nga năm 1923 rồi sau đó đi Quảng Đông. Trong khoảng thời gian này, vị trí của ông Hồ trong Quốc tế cộng sản như thế nào, bởi vì một số tác giả cho rằng lúc này ông Hồ đã được Quốc tế cộng sản chú ý nhiều?

Đầu tiên, ông Hồ lúc đó không phải là thành viên của một đảng cộng sản châu Á nào. Ông ấy
đang là thành viên của đảng cộng sản Pháp. Vì thế, ông chưa có vị trí vững chắc trong nội bộ Quốc tế cộng sản. Ví dụ, ông không có chân trong ban chấp hành. Có nhiều nhân vật khác quan trọng hơn như Mahendra Roy từ Ấn Độ hay Sen Katayama của Nhật. Nhưng Nguyễn Ái Quốc có một thông điệp rất rõ về việc phong trào cộng sản có thể tham gia thế nào trong phong trào quốc gia tại các thuộc địa. Tôi nghĩ bởi vì thông điệp này nên ông ấy được khuyến khích lên phát biểu tại đại hội lần thứ năm của Quốc tế cộng sản năm 1924. Nhưng lúc ấy, theo tôi, ông Hồ chưa phải là người phát ngôn hàng đầu về các vấn đề thuộc địa trong Quốc tế cộng sản.

Việc ông Hồ là thành viên đảng Cộng sản Pháp cũng có thể đã khiến vị trí của ông trở nên phức

tạp. Trotsky – đối thủ chính trị của Stalin thời bấy giờ ‐ có một ảnh hưởng đáng kể đối với những

người cộng sản Pháp.(sđd, 7)


 Lịch sử Cộng đảng  đề cao Nguyễn Tất Thành trong Đại hội V của Cộng đảng  Liên Xô:

Nguyễn Ái Quốc dự Đại hội V Quốc tế Cộng sản họp từ ngày 17-6 đến 8-7-1924 tại Mátxcơva (với 504 đại biểu thay mặt cho 46 đảng cộng sản, 4 đảng không cộng sản và 10 tổ chức quốc tế) để tổng kết tình hình, rút ra những bài học kinh nghiệm của các cuộc đấu tranh giai cấp trong những năm 1918-1923, đồng thời nêu lên ý nghĩa, tầm quan trọng của việc bônsêvích hoá các đảng cộng sản .Nhân ngày Quốc tế lao động 1-5-1924, Nguyễn Ái Quốc được mời đến Hồng trường nói chuyện với những người đi biểu tình và được Tư lệnh thành phố Mátxcơva cấp giấy phép tự do đi lại trên Hồng trường trong ngày Quốc tế của những người lao động. Những hoạt động tích cực của Người trên đất nước Xôviết, sự có mặt của Người trong những nghi lễ quan trọng cho thấy vai trò và uy tín của Nguyễn Ái Quốc ngày càng được khẳng định ở trung tâm phong trào cộng sản và công nhân quốc tế".

Rất tiếc là những nghi lễ trang trọng và vai trò, cùng uy tín của " bác" chỉ là bong bóng được thổi phồng do "bác " khai man và do đảng khuyếch đại Về việc này, Hoàng Tùng nói rõ là khi sang Liên Xô, "bác" bị người ta khinh miệt :

...sau vụ chính biến Tưởng Giới Thạch, Bác đi Liên Xô. Trước đó Bác phụ trách pho`ng Đông Nam Á của Quốc tế Cộng sản. Bác có đi dự Đại hội V Quốc tế Cộng sản nhưng không được bầu vào Ban chấp hành. Lần này sang, do cách hoạt động của mình, Bác bị Liên Xô nghi ngờ là chưa đủ tiêu chuẩn cộng sản. Sang Liên Xô Bác không được giao việc gi` cả, không có chức vụ chính thức trong tổ chức quốc tế. Bác xin về, họ không cho tiền. Sau Bác phải xin tiền bạn bè để về ...

Cộng đảng Việt Nam và một số học giả nghĩ rằng Tất Thành được Quốc tế III tin tưởng, giao cho phụ trách Á châu và theo dưới trướng Borodin, nhưng Sophie bác bỏ ý kiến này. Bà viết:


Tôi nghĩ điều này không chính xác, bởi vì ông Hồ lúc đó từ Nga đi Quảng Đông mà không mang theo một hướng dẫn rõ ràng về những gì ông sẽ làm tại đó. Ban đầu ông ấy không được cho mộtvai trò chính thức. Có vẻ như người ta đã tìm cho ông công việc làm người dịch thuật tại hãng tin
của Nga tại đó để có tiền thực hiện các hoạt động chính trị của ông.


Chứ còn lúc mới đến Quảng Đông, ông Hồ rất vất vả trong việc có đủ tiền giúp cho việc giúp đưa
  các thanh niên Việt Nam sang Quảng ̣Đông tham gia các khóa đào luyện. Như vậy, không có một  kế hoạch, chỉ thị rõ ràng dành cho ông Hồ và ông phải tự bươn chải, đối phó với các vấn đề khichúng diễn ra.

BBC: Chúng ta có biết tâm trạng của ông Hồ lúc này không?


Tôi nghĩ ông ấy cảm thấy bức bối vì thiếu sự giúp đỡ cụ thể của Quốc tế cộng sản, hay người Nga
  hay người cộng sản Pháp lúc đó. Trong năm 1924, ông Hồ liên tục gửi thư yêu cầu các lãnh đạo  Quốc tế cộng sản chú ý nhiều hơn đến nhu cầu của phong trào tại Việt Nam.


Cuối cùng thì vào đầu năm 1927, thông qua một đại biểu Quốc tế Cộng sản từ Pháp sang Quảng  Đông, ông Hồ nhận được một khoản ngân sách. Nhưng không may là trước khi kế hoạch được  thực hiện, xảy ra cuộc đảo chính của Tưởng Giới Thạch và ông Hồ phải rời khỏi Quảng Đông  trước khi các khóa đào tạo mà ông muốn tiến hành có thể khởi động một cách toàn diện.(sđd.8 Những bức thư sau đây đã cho thấy trong khoảng 1927, NAQ sống rất thiếu thốn. Việc này chứng tỏ NAQ không được Quốc Tế III coi trọng, ông chỉ là một đảng viên, một nhân viên, một tay sai tầm thường.
Đây là bức thư của HCM gởi cho Quốc Tế Cộng Sản yêu cầu lương công tác 100 Usd/ tháng ở thời điểm 1924. Bức thư được trích trong Hồ Chí Minh toàn tập- tập 2 (xem thêm ở links trên).

Thư gửi Ban chấp hành Quốc tế Cộng sản

Từ lúc tôi tới Mátxcơva đã có quyết định rằng sau 3 tháng lưu lại ở đây, tôi sẽ đi Trung Quốc. Bây giờ đã là tháng thứ chín tôi lưu lại và tháng thứ sáu tôi chờ đợi, vậy mà việc lên đường của tôi chưa được quyết định. Vậy chuyến đi sẽ là một chuyến đi để khảo sát và nghiên cứu.

Thiết lập những quan hệ giữa Đông Dương và Quốc tế Cộng sản.

B- Thông báo cho Quốc tế Cộng sản về tình hình chính trị, kinh tế và xã hội của thuộc địa này.
C- Tiếp xúc với các tổ chức đang tồn tại ở đó, và
D- Tổ chức một cơ sở thông tin và tuyên truyền.

Tôi hành động thế nào để hoàn thành nhiệm vụ này? Số tiền cần thiết cho sự ăn ở của tôi sẽ là bao nhiêu? - Hẳn là tôi sẽ phải đổi chỗ luôn, duy trì những mối liên hệ với các giới khác nhau, trả tiền thư tín, mua những ấn phẩm nói về Đông Dương, tiền ăn và tiền trọ, v.v., v.v.. Tôi tính rằng, sau khi tham khảo ý kiến các đồng chí người Trung Quốc phải có một ngân sách xấp xỉ 100 đôla Mỹ mỗi tháng, không kể hành trình Nga - Trung Quốc (vì tôi không biết giá vé).

Ngày 11-4-1924.

Qua bức thư nói nói trên chúng ta thấy ông ta không được giao nhiệm vụ để làm việc, và cũng không được cung cấp nhà ở, lương bổng đầy đủ. Điều này cũng cho thấy Quốc Tế coi nhẹ ông , chứng tỏ ông không có tài năng như ông từng vỗ ngực khoe khoang và đảng cộng sản của ông đánh trống khua chiêng inh ỏi về tài năng phi thường của ông.  Ông đã khốn khổ, phải viết đơn thư xin việc đến 2 lần. Ngoài ra qua các bức thư còn nói lên một sự thật hoàn toàn rằng ông ta làm những công việc hoạt động cho Quốc tế thứ 3 đơn thuần là làm đã lĩnh lương như bao người. Việc lĩnh lương khi làm công cũng không có gì là đáng nói, nhưng  việc ông đã tự ca ngợi mình bằng một luận điệu “yêu nước, thương dân”, là "tìm đường cứu nước" là dối trá, khoe mẽ, là "thùng rỗng kêu to" như lời bác trong “Vừa đi đường vừa kể chuyện.

  Sau đây là bức thư trích trong Hồ Chí Minh Toàn Tập - tập 2 (xem thêm ở links trên)

Gửi đồng chí Pêtorốp, Chủ tịch Ban Phương Đông

Tôi đã nhận được bức tối hậu thư của Sở quản lý nhà giục phải trả 40 rúp 35 côpếch về chỗ ở của tôi, không có thì tôi sẽ bị đưa ra tòa. Trong những tháng, tháng mười hai, tháng giêng và tháng hai tôi thuê phòng số 176, ở đây bao giờ cũng có 4 và 5 người thuê. Ban ngày thì tiếng ồn liên tục ngăn trở tôi làm việc. Ban đêm tôi bị rệp ăn thịt, không cho tôi nghỉ ngơi. Từ tháng ba, tôi nhận một phòng nhỏ, rất nhỏ. Sở quản lý nhà buộc tôi gánh 13 rúp 74 cho tháng ba, và 11 rúp 61 cho những tháng sau.

So sánh không gian hẹp và trang bị nội thất quá đơn sơ với các phòng khác rộng hơn nhiều, tiện nghi hơn, có nhiều đèn, điện thoại, tủ, ghế bành dài, phòng tắm, v.v. và tiền thuê thỏa đáng thì giá mà người ta muốn buộc cho tôi là hoàn toàn đáng công phẫn. Vì vậy tôi xin đồng chí vui lòng làm một cuộc điều tra. Và sau cuộc điều tra đó, với mọi quyết định của mọi tòa án, tôi tuân theo tinh thần của đồng chí về công bằng và bình đẳng.
3-1924

Điều này cũng cho thấy NAQ không có lý tưởng, luôn than phiền, đòi hỏi về vật chất.  Khi được cấp nhà nhỏ quá thì ông Hồ than và không đồng ý, kêu nài phải xét lại và cho một chỗ ở rộng rãi, thoải mái hơn.Cậu Ba trong tác phẩm Trần Dân Tiên khác xa hình ảnh và lời nói của cậu Ba trong những bức thư mà sau này đảng đã in lại cho thấy tinh thần của cậu rất khủng hoảng đúng như Sophie Quinn Judge đã nói.

Theo Đặng Chí Hùng, trong cuốn sách nghiên cứu khá sâu sắc về quốc tế cộng sản “Chủ thuyết của chúng ta” của học giả  A.Schenalder - một đảng viên đảng cộng sản CHDC Đức - được ấn hành tại Đông Đức năm 1981, trên trang 93 có nói đến nhân vật Hồ Chí Minh được tạm dịch như sau: 

“Người cộng sản chân chính không đánh giá quá cao về tấm lòng nhiệt thành và lý tưởng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh). Nhiều vị lãnh tụ như Stalin nhận thấy ở ông ta một sự tư lợi cá nhân mà một người có tinh thần dân tộc ít có.

Như vậy, rõ ràng quốcc tế coi khinh vì kiến thức kém và đạo đức cũng kém.

 Tài liệu Việt Cộng cho rằng Nguyễn Tất Thành là người đầu tiên thành lập đảng Cộng sản Việt Nam, và ông là người có uy tín trong đảng. Sophie Quinn Judge không đồng ý. Theo bà, trước Tất Thành có người đã nhận chỉ thị của Liên Xô về lập đảng:
Theo quyển sách của bà, thì Đảng Cộng sản thành lập tháng Hai năm 1930 và đến tháng Mười năm đó, ông Hồ Chí Minh đã đánh mất ảnh hưởng của mình trong đảng.
Cần nhắc là ông Hồ đã trải qua thời gian ở Thái Lan, rồi sang Hồng Kông vào mùa đông 1929.

Hồng Kông là nơi mà tháng Hai năm 1930, một đảng cộng sản thống nhất của người Việt Nam
ra đời. Cùng lúc này thì có nhiều sự không rõ ràng xung quanh việc ai là người ban đầu được chính thức giao trách nhiệm thành lập nên đảng. Bởi vì trước đó Quốc tế Cộng sản gửi về hai người là Trần Phú và Ngô Đức Trì. Hai người này đã học tại Moscow trong khoảng ba năm và trở về mang theo chỉ thị của Quốc tế cộng sản về cách thức thành lập đảng.

Vậy là sau khi Nguyễn Ái Quốc thành lập đảng cộng sản vào tháng hai, hai người này quay về
Việt Nam hoạt động. Cuối cùng đến tháng Mười, diễn ra hội nghị trung ương lần thứ nhất tổ chức tại Hồng Kông. Đến lúc này hai người, mà đặc biệt là Trần Phú ‐ theo tôi – đã cố gắng ấn định các chỉ thị mà họ mang theo từ Moscow. Chỉ thị này bao gồm đảng phải là tổ chức của riêng giai cấp lao động, một chủ trương mà sẽ dẫn đến một nỗ lực thanh trừng các thành phần yêu nước gốc trung lưu trong nội bộ đảng.(sđd, 9 )
 

BBC: Trong quyển sách, bà viết là đến khi hội nghị trung ương đảng cộng sản Đông Dương họp tại Sài Gòn ngày 12‐3‐1931, mối quan hệ giữa Ban chấp hành trung ương với ông Hồ Chí Minh đã xuống dốc  rất nhiều. Vì sao lại như vậy?

Thật sự thì Ban chấp hành gồm rất ít người, người lãnh đạo chính là ông Trần Phú. Tôi nghĩ có
một sự khó chịu về nhau từ cả hai phía – ông Nguyễn Ái Quốc ở Hồng Kông và các ông Trần  Phú, Ngô Đức Trì và các lãnh đạo khác ở Sài Gòn. Than phiền chính của họ là những khó khăn  trong việc liên lạc với Quốc tế cộng sản, mà đại diện là văn phòng phương Đông tại Thượng Hải.Có nhiều lý do vì sao việc liên lạc lại khó khăn. Một trong số đó là chi nhánh đảng cộng sản  Trung Quốc tại Hồng Kông đã bị người Anh phát hiện vào khoảng đầu năm 1931. Nên khôngcòn một cơ sở hạ tầng cho việc liên lạc như trước đây.

Và dĩ nhiên lúc đó đảng cộng sản tại Việt Nam cũng bị tổn hao vì những đợt bắt bớ của người
Pháp. Trong hoàn cảnh khó khăn như vậy, dễ hiểu là vì sao các bên đổ lỗi cho nhau. Ông Hồkhông nhận được thông tin từ trong nước, nên ông yêu cầu ban chấp hành ở miền Trung và Hà  Nội. Điều này làm các lãnh đạo ở Sài Gòn khó chịu. Vì thế ông Hồ cảm thấy mình không được  sử dụng đúng và sau đó đề nghị đảng cho thôi chức vụ của ông tại Hồng Kông.

BBC: Nhưng bên cạnh đó, một lý do khác dường như là xung đột trong hệ tư tưởng giữa các bên, phảikhông?

Vâng, theo tôi, ông Hồ lúc đó bị chỉ trích vì người ta bắt đầu xem ông là một nhà cải cách theo xu
hướng quốc gia. Ông ấy coi đảng phải sử dụng những tình cảm yêu nước để thu hút nhiều đối  tượng. Trong khi đó, tại Sài Gòn, chi bộ đảng đã bắt đầu đi theo chính sách mới của Quốc tếCộng sản, tức là đấu tranh giai cấp và đảng chỉ là đảng của người vô sản mà thôi, sinh viên hay  tầng lớp trung lưu chỉ đóng vai trò hỗ trợ.

BBC: Cái vấn đề là người quốc gia hay cộng sản đã được bàn đến nhiều xung quanh ông Hồ Chí Minh. Có
  người nói là ngay cả khi xem ông Hồ là người theo chủ nghĩa dân tộc, thì thật ra đó không phải lý thuyết  của chính ông? Bà nghĩ sao?

Thật khó để biết đâu là xu hướng riêng trong chính sách của ông Hồ lúc đó, đâu là ông đi theo
chính sách của Quốc tế cộng sản thời kì thập niên 1920. Nhưng có thể nói xu hướng của ông Hồlúc đó phù hợp với chính sách của Quốc tế cộng sản lúc 1920. Theo đó, những người cộng sản  nên tập trung vào các cuộc cách mạng dân tộc ở các nước thuộc địa bởi vì giai cấp vô sản hay  đảng cộng sản còn rất nhỏ, tự mình hành động thì không có lợi. Ông Hồ theo xu hướng này. Cònông có những ý tưởng nào vượt ra khỏi điều này không, thì tôi không rõ.

BBC: Chúng ta hãy chuyển sang giai đoạn giữa thập niên 1930 khi ông Hồ quay về Nga. Có vẻ như vị trí
của ông trong Quốc tế cộng sản lúc này bị lung lay?

Stalin lúc này đã củng cố ảnh hưởng của mình. Nói chung những ai đã từng làm việc ở nước
  ngoài sẽ bị nghi ngờ mang tư tưởng tư sản. Những ai trở về Nga phải tự thú. Có cảm giác kẻ thùở mọi nơi. Đặc biệt những người như ông Hồ Chí Minh đã từng làm việc với mặt trận thống  nhất tại miền nam Trung Hoa. Thêm vào điều đó, lại còn những vụ bắt giữ người cộng sản tại  Hồng Kông, Thượng Hải năm 1931. Cơ sở của quốc tế cộng sản tại Thượng Hải sụp đổ. Vànhững người lãnh đạo đảng cộng sản tại Việt Nam cũng bị bắt. Nên dĩ nhiên diễn ra các vụ điềutra xem ai có tội, và ông Hồ chắc chắn trải qua những ngày vất vả khi đó.

BBC: Sau những vụ thanh trừng tại Nga 1937 – 1938, thì nhiều người tự hỏi vì sao ông Hồ Chí Minh có
  thể tồn tại sau những ngày như thế?

Đó là câu hỏi mà các chuyên gia nước ngoài đã tập trung nghiên cứu từ lâu. Quan điểm trước
đây của họ cho rằng lý do chính là vì ông Hồ, vào cuối thập niên 30, đã trở thành lãnh tụ của  đảng cộng sản nên vì thế được Stalin bảo vệ hay ít nhất cũng là một trong những người được tin  dùng. Theo tôi, đó là một sự tổng quát hóa không có cơ sở. Stalin có thể diệt trừ những ngườithân cận nhất của mình, không có ai là an toàn. Những nhân vật thân cận như Kalinin, Molotovcũng là nạn nhân của Stalin (vợ của họ bị bắt và đây có thể xem là một cách để khống chế những  người này). Nên phải nói ngay từ đầu cái ý nghĩ bạn có thể an toàn khi ở cạnh Stalin là điều  không có thật. (sđd, 11)


Như vậy là Sophie Quinn Judge cho rằng NAQ đã chết trong khoảng 1932, không chết trong ngục Hongkong cũng chết trong bàn tay Stalin. Do đó thuyết của Hồ Tuấn Hùng và những tác giả khác là đúng. HCM khoảng 1940 là người giả do Quốc Tế III nặn ra, là con búp bê hay thằng bù nhìn không giá trị nên chẳng ai coi trọng.

Tài liệu Việt Nam, Liên Xô cho hay khi HCM làm chủ tịch nước cũng bị Mao Trạch Động, Stalin coi không ra gì cả.
 

Năm 1949, Mao Trạch Đông là chủ tịch Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa. Ông Hồ cũng là chủ tịch nước Việt Nam 4 năm rồi. Vậy mà ông Hồ cầm đầu một phái đoàn đi xin viện trợ, phải băng rừng lội suối đến biên giới. Nhà cầm quyền Trung Cộng dùng một chiếc xe hàng (truck) chở phái đoàn lên Quảng Tây, bất chấp nghi thức ngoại giao không kèn, không trống. Sau đó, ông đi Liên Xô. Ông Lê Phát, thành viên của phái đoàn nầy kể lại : " ... Sau nầy khi xem cuốn hồi ký "Mémoires Inédites" của Nikita Kroutchev do nhà xuất bản Pierre Belfont dịch và in ở Paris, tôi biết thêm về chuyến "vi hành đầy gian khổ của ông Hồ. 

Trong Hồi Ký, Nikita Kroushchev kể lại :


"Tôi nhớ Hồ Chí Minh đã đến Moscou để xin viện trợ vật chất và vũ khí để chống Pháp. Staline không tin vào cuộc chiến ở VN, nên đối xử với ông Hồ một cách nhục mạ. Tôi không thấy ở ông ta chút cảm tình nào đối với một người CS như Hồ ...”. Đáng lẽ phải kính trọng, biết ơn ... Tôi còn nhớ một việc khác xúc phạm đến Hồ. Staline nói với chúng tôi là Hồ xin được đón với tư cách là chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Staline không chấp nhận, đã trả lời Hồ : " Cơ hội ấy đã qua rồi. Ông đến Moscou không ai biết, không thể thông báo việc ông đến được” ... Hồ chỉ đề nghị Staline cho một máy bay và chuẩn bị diễn văn đón Hồ, có thể từ trên máy bay xuống, để được đón như chủ tịch nước. Staline từ chối và ông ta cười khoái trá khi kể cho chúng tôi nghe việc ấy  ..." (Hồi ký Lê Phát, Quê Mẹ, số 140). 
Cũng trong Hồi Ký trên, Nikita Khrushchev viết: "Trong suốt cuộc đàm luận, Hồ Chí Minh lúc nào cũng dính chặt mắt vào Staline với cái nhìn lạ lùng chỉ có ở Hồ. Cái nhìn đó biểu thị một sự ngây ngô hầu như non dại. Tôi thấy lại cái nhìn đó khi Hồ chăm chăm tìm kiếm một tờ báo Liên Xô trong tập đựng tài liệu của Hồ, có lẽ là tạp chí 'Liên Xô Trong Xây Dựng' và xin Staline đề mấy hàng lưu niệm. Hồ có vẻ vui thích với ý nghĩ sẽ trở về Việt Nam có trong tay thủ bút của Staline để Hồ có thể khoe khoang với đám đàn em của Hồ. Staline đã viết lời đề tặng, nhưng sau đó đã ra lệnh đánh cắp tờ báo này vì ngại Hồ có thể lạm dụng tiếng tăm của mình." 
Sự kiện này cho biết Staline luôn khinh miệt và không tin tưởng cậu Ba, và Nguyễn Tất Thành luôn dùng kế "hồ mượn oai hổ" để quảng cáo và lừa bịp người như sau này ông xin chụp hình và xin súng Mỹ của các ông OSS Mỹ.
 
Nguyễn Đăng Mạnh cũng cho ta xem một đoạn bi kịch của cuộc đời  HCM và lịch sử cộng đảng Việt Nam.
 Người ta đang sùng bái Staline, Mao Trạch Đông, không chịu nghe Hồ Chí Minh, chắc thế. (Staline vốn không coi Hồ Chí Minh là cộng sản chân chính. Ông Phạm Văn Đồng có lần nói với anh Hoàng Tuệ (khi hai người cùng công tác ở Liên Xô): Năm 1950, Staline triệu Hồ Chí Minh sang gặp. Ông ta không gọi Hồ Chí Minh là đồng chí (tavarich).( Nguyển Đăng Mạnh, HCM,XLV)
 
Việt cộng nói rằng ông Hồ được toàn thể đảng và Liên Xô, Trung Quốc kính trọng nhưng sự thật thì khác.Trong  HỒI KÝ, Hoàng Tùng viết:
 Anh Lê Duẩn có nói với tôi là Hà Huy Tập báo cáo với Quốc tế về việc mật thám đưa bà Thanh đi Trung Quốc tìm Nguyễn Ái Quốc và ra nghị quyết phê phán sai lầm dân tộc chủ nghĩa cải lương của Nguyễn Ái Quốc. Bác đến Liên Xô năm 1934-38 chỉ làm công tác ở Ban thuộc địa của Quốc tế cộng sản, không được giao nhiệm vụ cụ thể. Người được giao nghiên cứu làm luận án phó tiến sĩ về vấn đề thuộc địa. Bác xin được làm nhưng không được trả lời.
Mặc dầu Lý Thụy gần gũi với Mao, Chu, và là tay sai đắc lực của đệ tam quốc tế, khi Cộng sản Việt Nam lập chính phủ dân chủ cộng hòa, Trung Quốc và Liên Xô không công nhận. 
Hoàng Tùng viết:" Vi` quan hệ của ta với Trung Quốc và Liên Xô không được thuận tiện, cho nên khi chính quyền của ta được thành lập thi` hai nước đều không công nhận. Trung Quốc thi` quan hệ không chính thức. Hai người sang ta đầu tiên nhân danh Đảng mà cũng là Đảng địa phương thôi, đó là Chu Nam và Trang Điền.

Về phía Liên Xô, Stalin tỏ ra lạnh lùng, bạc đãi Nguyễn Tất Thành, họ không cho Nguyễn Tất Thành học đại học, không cho làm luận án và cũng không cho giữ chức vụ gì . Điều này khác với lịch sử cộng đảng. Hoàng Tùng kể: 
 

 Anh Lê Duẩn có nói với tôi là Hà Huy Tập báo cáo với Quốc tế về việc mật thám đưa bà Thanh đi Trung Quốc ti`m Nguyễn Ái Quốc và ra nghị quyết phê phán sai lầm dân tộc chủ nghĩa cải lương của Nguyễn Ái Quốc. Bác đến Liên Xô năm 1934-38 chỉ làm công tác ở Ban thuộc địa của Quốc tế cộng sản, không được giao nhiệm vụ cụ thể. Người được giao nghiên cứu làm luận án phó tiến sĩ về vấn đề thuộc địa. Bác xin được làm nhưng không được trả lời. (sđd)
 
  Tại Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ VII, Người không tham gia đoàn đại biểu Đảng ta, chỉ là đại biểu dự thính. Liên Xô vẫn cho rằng Việt Minh là một thế lực dân tộc chủ nghĩa. Họ không thấy Đảng Cộng sản đâu, và vi` sao Đảng Cộng sản giải tán...Lưu Thiếu Kỳ nói ngay rằng : các đồng chí giải tán Đảng, các đồng chí tưởng lừa được địch, nhưng địch không lừa được mà lại lừa chính chúng tôi, vi` chúng tôi hiểu rằng các đồng chí giải tán Đảng thật.(sđd)


  Đấy là về phía Liên Xô, Trung Quốc, còn về phía Đảng cộng sản Pháp, là Đảng thân thiết với ta, lúc đầu họ cũng cho Việt Minh là phái thân Nhật chứ không phải cộng sản....

Trước đó, Đảng Cộng sản Pháp không làm gi` để ủng hộ ta. Đó là khó khăn đối với Bác lúc bấy giờ.

 Trong " Giọt Nước Trong Biển Cả", Hoàng Văn Hoa chê phe Quốc gia mâu thuẫn nhưng Hoàng Tùng cho biết về nội bộ cộng đảng Việt Nam  có nhiều mâu thuẫn chứ không nhất trí và theo lệnh Hồ Chí Minh. 
Hoàng Tùng viết: Trong khu uỷ của khu bốn, mọi người mâu thuẫn với nhau, mà toàn những lăo thành cả như Nguyễn Sơn, Hoàng Văn Hoan, Hồ Tùng Mậu, Trần Hữu Dực.Ông Hoàng Văn Hoan thi` nổi tiếng về những chuyện kèn cựa ngay từ đầu. 
 Rồi đến Nguyễn Sơn và Võ Nguyên Giáp, phái cộng miền Nam và phái cộng miền Bắc, phe Liên Xô, phe Trung Quốc chiến đấu với nhau rất anh dũng. Hoàng Tùng viết rất thành thật, không tuyên truyền dù ông thuộc loại hạng quan to súng ngắn và gần mặt trời:
 Trong nội bộ tình hi`nh nói chung ổn, trừ mấy trường hợp, như Trần Văn Giàu. Giàu học ở Liên xô về. Tôi biết có người tên là Phi Vân, cũng học ở Liên Xô về, bị đi tù ở Sơn La. Khoảng năm 1935, ở tù cùng với Phi Vân tôi hỏi Phi Vân nhận xét về Nguyễn Ái Quốc. Vân nói ông già này không có gi` đâu, ở nhà cứ tưởng là nhân vật quan trọng lắm, chứ ông ta dân tộc chủ nghĩa, trình độ ly' luận kém.

Trong Đảng có hai nguồn đào tạo, một học ở Liên xô về, một học ở Trung quốc về. Do đó họ theo quan điểm của hai nơi, có những y' kiến không giống nhau, đôi lúc hục hặc với nhau. Nhưng nói chung cả hai bên đều chịu Bác. Chỉ có Nguyễn Sơn về sau có vấn đề phải ra đi. Trước khi mất, Nguyễn Sơn có tâm sự với tôi rằng sai lầm thi` phê bình chứ sao lại đuổi đi. Ông ta trách Bác. Lúc đó tôi hỏi anh Võ Nguyên Giáp, anh ta hay hục hặc như thế để anh ta làm phó cho anh có được không, Võ Nguyên Giáp nói làm phó thế nào được, anh ta suốt ngày chửi tôi, anh ta co`n phê bi`nh trường Nguyễn Ái Quốc rất ghê. Sau Bác nói chú Nguyễn Sơn hữu tài nhưng... nên mời chú đi.


"Bác" không có uy tín bằng Nguyễn Văn Tạo, vì Nguyễn Văn Tạo được vào trung ương còn "bác" thì không:
  Năm 1923, Nguyễn Văn Tạo là học sinh băi khoá ở Sài Go`n được sang Pháp học, được kết nạp vào Đảng cộng sản Pháp, rồi vào Trung ương ngay. Nguyễn Ái Quốc không được bầu vào Trung ương, Bác làm ở Ban thuộc địa. Đảng Cộng sản Pháp cử 3 người trong đoàn Pháp sang Đại hội VI Quốc tế cộng sản, trong đó có Nguyễn Văn Tạo. Nguyễn Văn Tạo đề nghị là ở Đông Dương điều kiện đă chín muồi, đề nghị cho thành lập Đảng Cộng sản."

Đảng Cộng sản Việt Nam tô vẽ " Bác" là người có uy tín ở Pháp, nhưng ngay năm 1923, "bác" chẳng là gì cả. Như vậy, rõ ràng là những thành tích của "bác" từ 1919 đến 1923  mà "bác" và Việt Cộng tuyên truyền là không thực. 

 Cũng từ đây, ta thấy ý kiến thành lập đảng cộng sản phát xuất từ Nguyễn Văn Tạo tác động đến người trong nước mà đi đầu là nhóm Ngô Gia Tự, Nguyễn Phong Sắc. Việc này đã làm mất uy tín của " bác", của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội, và đưa đến việc thành lập các đảng Cộng sản mà Hoàng Tùng cho là " ba tổ chức tìm cách chống nhau, gây chia rẽ".




 Theo Hà Huy Giáp, người đầu tiên phê phán Nguyễn ái Quốc có khuynh hướng dân tộc chủ nghĩa là Trần Phú. Ông Đào Phan cung cấp cho tôi một tài liệu: khi thành lập đảng Cộng sản Việt Nam ở Hồng Kông, Nguyễn ái Quốc có đưa ra một văn bản gọi là chính cương vắn tắt, phân tích tình hình giai cấp sát với thực tế Việt Nam, nhất là về giai cấp địa chủ (chế độ công điền khiến địa chủ không phát triển được, vì thế địa chủ ở Việt Nam có thể phân hoá được. Staline bèn phái Trần Phú về nước, vất chính cương của Nguyễn ái Quốc đi, thay bằng luận cương Trần Phú đã được đóng dấu ở Mạc Tư Khoa và đặt tên đảng là Đảng Cộng sản Đông Dương. Staline còn chủ trương vô hiệu hoá Nguyễn ái Quốc đối với cách mạng Việt Nam.

Xem chừng Hồ Chí Minh thích tam dân chủ nghĩa của Tôn Dật Tiên hơn. ông từng dịch cuốn Tam dân chủ nghĩa hồi bị giam ở nhà tù Quảng Tây, Trung Quốc. Và "Độc lập - Tự do - Hạnh phúc" chính là khẩu hiệu cách mạng của Tôn Trung Sơn. (HCM, XLV)

Một đời Nguyễn Tất Thành là một đời dối trá.Hoàng Tùng cho biết "việc Bác về Xiêm là do Bác chủ động chứ không phải là do Quốc tế phân công".

Chính người cộng sản cũng không tin tưởng "bác".
Hoàng Tùng cho biết trong buổi họp thống nhất ba đảng cộng sản, Sau Lê Văn Lương nói với tôi là khi Bác về Trịnh Đi`nh Cửu có hỏi Bác giấy uỷ nhiệm của Quốc tế cộng sản, vi` Bác nói là Quốc tế cử về. Bác trả lời : " Đồng chí thử tưởng tượng xem, nếu tôi mang trong người giấy uỷ nhiệm của Quốc tế Cộng sản, thi` liệu tôi có về được đến đây không ? "

HCM không là gì cả nhưng ông muốn lập công, tranh giành ảnh hưởng với Trần Phú cho nên gây ra xung đột. Đây là đoạn Nguyễn Minh Cần viết về HCM trong vụ Sô Viết Nghệ Tĩnh:. Xin nói thêm một chuyện "lèm nhèm" tương tự nữa: cái gọi là phong trào Xô-viết Nghê.-Tĩnh. Nếu nói đúng sự thật thì trong cuộc nổi dậy mạnh mẽ và dũng cảm của nông dân hồi tháng 8 - 9 năm 1930, không một nơi nào ở hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh đã lập ra xô-viết cả. Hồi đó, ở một số vùng nông dân nổi dậy, hào lý sợ hãi bỏ chạy, dân làng cử vài người đứng ra lo một vài việc ở xã thôn, và tùy nơi gọi đó là "xã bộ", "xã bộ nông", "thôn bộ", "thôn bộ nông" hoặc không gọi tên gì cả. Thế nhưng khi được tin nông dân nổi dậy ở Nghê.-Tĩnh, Nguyễn Ái Quốc đã vội vã báo cáo hồi tháng 11 năm đó cho QTCS và Quốc tế Nông dân (một tổ chức quần chúng "hữu danh vô thực" của QTCS) là: "Hiện nay ở một số làng đỏ, Xô-viết nông dân đã được thành lập". Từ đó, cái tên Xô-viết Nghê.-Tĩnh được tung ra và trở thành "lịch sử": sau này, ban lãnh đạo ÐCSVN cố nói lấy được là ở Nghê.-Tĩnh đã có các xô-viết, đã có phong trào Xô-viết Nghê.-Tĩnh. Trong lúc đó, chính những người viết sử của đảng đã phải thừa nhận trên giấy trắng mực đen như sau: "về chủ trương thành lập chính quyền Xô-viết thì hồi đó không đồng chí nào nhận được chỉ thị hoặc nghe phổ biến" và "khi xã bộ nông đã nắm quyền hành ở nông thôn mà vẫn chưa có quan niệm rõ là ta đã giành được chính quyền". Ðiều đó nói lên gì? Một là, ngay ở Nghê.-Tĩnh không đâu có chủ trương hay ý định lập chính quyền, chứ nói gì đến chính quyền xô-viết; hai là, chính ÐCSVN cũng không có chủ trương lập chính quyền xô-viết; và ba là, đảng viên và dân chúng ở các địa phương đó không hề có ai biết "xô-viết" là cái gì cả. Thế mà... úm ba la... lại "có" các "xô-viết"! Lại "có" phong trào "Xô-viết Nghê.-Tĩnh"! Những người viết sử đảng buộc phải xác nhận những điều thực tế nói trên trong sách "Xô-viết Nghê.-Tĩnh", lại cố gượng gạo giải thích: "Ðảng đã xác nhận rằng ở Nghê.-Tĩnh đã có chính quyền Xô-viết là căn cứ vào sự hoạt động và những chức năng của chính quyền ấy" (những câu trong ngoặc kép của cả đoạn này đều trích từ sách: "Xô-viết Nghê.-Tĩnh". Hà Nội, 1962, tr. 11, 92-93). Ðó là kiểu ngụy biện, nói lấy được muôn thuở của những người cộng sản. Thử hỏi: thế thì vì sao sau này chính quyền do ÐCS lập ra cũng có "sự hoạt động và những chức năng" đúng như vậy lại không gọi là xô-viết?

Trong việc này có thể có hai khả năng. Hoặc là hồi đó, thấy QTCS đang đề ra nhiệm vụ trước mắt cho các ÐCS là "xô-viết hóa các nước", nên Nguyễn Ái Quốc báo cáo như thế để làm đẹp lòng cấp trên. Hoặc là cán bộ QTCS gợi ý cho Nguyễn Ái Quốc báo cáo như thế để cổ động các nước khác theo gương lập ra các xô-viết. Khả năng đầu nhiều hơn, nhưng dù khả năng nào đi nữa thì đó cũng là sự lừa dối lịch sử.


Trong cuộc nổi dậy của nông dân Nghê.-Tĩnh, lần đầu tiên trong lịch sử, những người cộng sản Việt Nam ở vùng này đã hé ra cho mọi người thấy rõ bộ mặt thật của "chuyên chính vô sản" qua những chính sách và hành động ác liệt của họ, như "Trí, Phú, Ðịa, Hào, đào tận gốc, trốc tận rễ"... Ðối tượng hàng đầu bị "đánh" là trí thức, mà trí thức ở làng xã Nghệ Tĩnh hồi đó là những ai thì độc giả có thể hình dung được, thiết tưởng không cần phải kể rạ


Nói cho công bằng, khởi đầu chỉ có vài cuộc đấu tranh tự phát, sau đó một vài người trong Kỳ bộ Trung Kỳ, chứ không phải cả Kỳ bộ, mới chủ trương phát động cuộc nổi dậy phiêu lưu này. Thường vụ Trung ương ÐCSVN ở trong nước do Trần Phú làm tổng bí thư thì hoàn toàn không hay biết gì hết về chủ trương này. Thường vụ Trung ương bị đặt trước "việc đã rồi", rất bị động, đã phê phán mạnh mẽ tính chất manh động, tả khuynh của phong trào Nghê.-Tĩnh và rất bực mình vì sự báo cáo vội vã của Nguyễn Ái Quốc với QTCS. Ðây là một trong nhiều việc khác thúc đẩy Trung ương ÐCS ở trong nước, một thời gian sau đó, đã gửi thư lên BCH QTCS nói lên sự bất bình của mình đối với Nguyễn Ái Quốc. Người viết bài này đã được đọc nguyên văn bức thư đó tại kho lưu trữ của QTCS (nay là RSKHIDNI). Ðây là nội dung một đoạn: ... "Liên la.c. Xin các đồng chí hãy viết trực tiếp cho chúng tôi, vì rằng khi Quốc (tức là Nguyễn Ái Quốc - NMC) truyền đạt thì anh ta nói quá vắn tắt và đôi khi anh ta đưa ý kiến riêng của cá nhân vào mà không xin ý kiến các đồng chí, và cũng không báo cho các đồng chí biết, dù anh ta chỉ là liên lạc viên thôi. Chúng tôi cũng viết trực tiếp cho các đồng chí. Vì sao Quốc lại cứ liên lạc với TƯ và Bắc Kỳ bộ, ở đâu anh ta cũng ra mệnh lệnh, ở đâu anh ta cũng đòi báo cáo. Tình trạng như thế làm cho chúng tôi cực kỳ khó khăn (trong nguyên văn là "khó khăn khủng khiếp" - NMC). Thậm chí các đồng chí ở các Kỳ bộ hỏi chúng tôi: "Ai lãnh đạo chúng tôi, TƯ hay là Quốc?" Chúng tôi hy vọng rằng từ nay về sau, về các vấn đề có liên quan đến đảng chúng tôi, các đồng chí sẽ liên lạc trực tiếp với TƯ và các đồng chí sẽ giải thích cho Quốc rằng tình trạng đã xảy ra vừa qua là không bình thường. Nếu Kỳ bộ phải làm báo cáo cho khắp nơi và nhận mệnh lệnh và chỉ thị từ khắp nơi, thì như vậy chúng tôi sẽ rất khó khăn trong việc cung cấp tình hình chính xác cho các đồng chí và điều đó đặc biệt gây ra nhiều khó khăn cho sự lãnh đạo của TƯ đối với toàn thể bộ máy của mình. Chúng tôi yêu cầu các đồng chí giải thích ngay cho Quốc trách nhiệm của anh ta là ở việc gì, và đòi anh ta phải chuyển giao cho các đồng chí tất cả những gì anh ta nhận từ chúng tôi (báo, truyền đơn, thông tri, v.v...). Từ nay trở đi, chúng tôi sẽ gửi trực tiếp đến các đồng chí những báo cáo và thư từ bằng tiếng Pháp, còn Quốc thì chỉ có nhiệm vụ chuyển lại các đồng chí mà không cần phải giữ lại ở chỗ anh ta và tự mình nghiên cứu"... Ðể bạn đọc thấy rõ vấn đề, người viết cố ý trích dịch từ nguyên bản đoạn có liên quan đến Nguyễn Ái Quốc trong thư của TƯ ÐCS Ðông Dương đề ngày 2.7.1931, viết bằng tiếng Nga và tiếng Pháp, có ghi chữ Tối mật, hiện lưu giữ tại RSKHIDNI ở Kho 495, Bảng kê 154, Hồ sơ 463, toàn văn bức thư ở trang 147-156, riêng đoạn đã dẫn trên đây do chúng tôi dịch ở trang 156. Có thể tin chắc rằng hồi đó, Trung ương ÐCSVN ở trong nước đã nắm được "tính cách" Nguyễn Ái Quốc cũng như "động cơ" của việc ông Nguyễn vội vã báo cáo với QTCS về các "xô- viết" tưởng tươ.ng.(Nguyễn Minh Cần.
Đảng Cộng Sản Việt Nam Qua Những Biến Động Trong Phong Trào Cộng Sản Quốc Tế . (8). (HCM,


Theo Mường Giang, cho đến khoảng 1930-1944,  HCM cũng chẳng có uy tín gì, ông thua Trường Chinh , Võ Nguyên Giáp:  

Ngoài ra những bí mật đã được bật mí, theo đó mới biết được  gần suốt cuộc đời của Hồ, hầu như sống bằng nghề tình báo KGB, phục vụ cho đệ tam quốc tế mà thôi. Cho nên người ngoài cũng không lấy làm lạ trước những sự kiện của đảng cộng sản Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng, ưu thế của Hồ Chí Minh từ năm 1930 cho tới cuối năm 1944, địa vị của Hồ trong đảng rất mù mịt, không chiếm được một ưu thế nào, vì Hồ thật sự đâu có làm gì. Cũng theo sử liệu, lãnh đạo đảng lúc đó là những tên tuổi Đặng Xuân Khu, Nguyễn văn Cừ, Lê Đức Thọ, Văn Tiến Dũng cho nên mãi tới hội nghị đảng lần thứ VIII, họ Hồ vẫn chưa có một danh vị đảng. Theo Lê Quảng Ba viết trong Hồi ký Đầu Nguồn, tiếng nói của nhóm cán bộ lưu vong tại hang Pắc Pó trong thời gian 1941/1944, Hồ Chí Minh từ Nậm Quang chính thức dời về đóng trụ ở biên giới Hoa-Việt, để dạy lớp cán bộ. Lớp học kết thúc ngày 26/01/1941 nhưng đã bế tắc vì Hồ không đủ uy tín để tổ chức được một chiến khu nào tại miền xuôi. Bởi vậy mới thấy tới ngày 22/12/1944, Võ Nguyên Giáp mới lập được Đội Việt Nam Tuyên Truyền Giải Phóng Quân, tại rừng Trần Hưng Đạo, Huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng, đông tới 34 người, hầu hết là Nùng, Thổ bản địa.(Mường Giang.HCM,XL) 
Dù " bác " là Nguyễn Tất Thành hay một kẻ nào thay vai, cuối đời " bác" đã thúc thủ. Vũ Thư Hiên trong "Đêm Giữa Ban Ngày" và Nguyễn Văn Trấn trong "Viết Cho Mẹ và Quốc Hội" cho biết trong khoảng 1963, ông Hồ đã bị Lê Duẩn, Lê Đức Thọ kiềm chế. Hai ông đàn em này tính cho ông Hồ về làm ban Nghiên cứu lịch sử đảng, tức là ngồi chơi xơi nước, và bọn họ định đưa Nguyễn Chí Thanh lên làm chủ tịch nước, nhưng Nguyễn Chí Thanh đột tử năm 1967.Vì Nguyễn Chí Thanh chết, Hồ Chí Minh vẫn làm chủ tịch nhưng vài năm sau thì chết, Lê Duẩn mở chiến dịch chống đối Trung Quốc bá quyền, âm mưu Đại Hán bành trướng.

    Những sự kiện đó cho thấyNguyễn Tất Thành không được quốc tế và quốc nội tin tưởng, dù ông nhiều mánh lới cũng đã phải nhiều phen thất bại đắng cay chứ không phải lúc nào cũng thành công rực rỡ như ông tự hào và thủ hạ ca tụng. 


    HỒ CHÍ MINH VI * THÁNH KHỔ TU



    Chương VI

    HUYỀN THOẠI BẬC THÁNH KHỔ TU



    Hồ Chí Minh và đảng cộng sản Việt Nam luôn đề cao việc Hồ Chí Minh sống độc thân theo mô hình của một vị thánh khổ tu.. .. Chính Hồ Chí Minh, ở đâu, lúc nào cũng lớn giọng tuyên bố " Tôi không lập gia đình, tôi hy sinh hạnh phúc cá nhân tôi cho nhân dân tôi" . Nếu có ai hỏi bác bao giờ cưới vợ, bác nói bác chờ ngày kháng chiến thành công"!

    Tháng 1-1947, trong lá thư chia buồn gửi bác sĩ Vũ Đình Tụng, Hồ Chí Minh đã tự đề cao đạo hạnh của mình : “Ngài biết rằng tôi không có gia đình, cũng không có con cái. Nước Việt Nam là gia đình của tôi. ” (HCM, CXLIV)

    Mạch Quang Thắng thuật lại lời Hồ Chí Minh về sự độc thân cao thượng và lý tưởng của ông Hồ trong một buổi liên hoan:

    Trong những buổi vui vẻ như vậy, nhiều người đề nghị Hồ Chí Minh lấy vợ. Có lần Bác nói: “Các chú hỏi bao giờ Bác lấy vợ, phải không? Có hỏi thì có trả lời nhé: Không lâu nữa đâu! Bao giờ dân ta toàn thắng, Bắc – Nam sum họp một nhà!”.
    Còn Phan Anh, khi thấy sức khoẻ của Hồ Chí Minh có phần giảm sút trong những ngày gian khổ tại An toàn khu  năm 1948 lúc Hồ Chí Minh 58 tuổi, có đề nghị Bác lập gia đình để có người thân thương hằng ngày săn sóc, thì Bác thủng thẳng nói: “Ông bảo thế tôi không phải là con người à? Tôi sống như mọi người mà. Có phải thần, thánh gì đâu Nhưng ông thấy đấy: việc nước bề bộn như vậy!” (HCM, CXL III)


    Tại Trung Quốc , bác đã tuyên bố với các kiều nữ Trung quốc cũng luận điệu như vậy. Các phụ nữ Trung Quốc mời bác trở lại Trung Quốc.

    Bà Thái Xướng nói một cách lắt léo rằng: “Xin đừng đến một mình nhé”.
    “Lẽ tất nhiên, tôi sẽ mời một số đồng bào cùng tôi sang đây ở”.
    “Không, chỉ mời Bác và phu nhân”.

    Bác cười, rồi nói thư thả: “À, té ra Đặng Dĩnh Siêu góp ý kiến trên hội đồng phụ nữ không muốn làm chiếc áo bông sợi tơ cho tôi là như thế này đấy”.
    Một bà nhanh nhảu nói rằng: “Đúng vậy, bây giờ Bác nên lấy một bà vợ cách mạng, đừng có cứ bóc lột bà Đặng Dĩnh Siêu mãi”, trong phòng vang lên tiếng cười khà khà.

    Hồ Chí Minh lâu nay vẫn sống một mình. Bao năm nay nhiều đồng chí Việt Nam và Trung Quốc đều quan tâm đến việc hôn nhân của Bác. Song khi còn trẻ, Bác đã có chí hướng: Tổ quốc không độc lập không thống nhất sẽ không kết hôn. Như vậy, những người bạn cũ quen biết lâu năm như Chu Ân Lai và Đặng Dĩnh Siêu đành phải thường xuyên quan tâm đến sự mặc ấm cúng của anh cả này. Năm 1957, bà Đặng Dĩnh Siêu đã tự mình làm chiếc áo bông sợi tơ cho Bác.
    Các đồng chí nữ luôn miệng nói đùa rằng: “Khi Hồ Chủ tịch sang đây lần nữa, chúng tôi phải đòi bác cho ăn kẹo cưới”
    .(CXL)

    Đại sứ Trung Quốc  Lý Gia Trung đã viết trên tờ “Thế Giới Tân Văn” ngày 11 tháng 7 năm 2005 ca tụng Hồ Chí Minh như sau: “HCM vì sự nghiệp cách mạng chấp nhận sống độc thân, không xây dựng gia đình, không vợ không con”. (1)

    Trả lời phỏng vấn của báo chí ngoại quốc ngày 16 tháng 7 năm 1947, Hồ Chí Minh cũng tỏ vẻ cao thượng, hy sinh tình yêu cho tổ quốc:
    Tôi không có gia đình, không vợ con, Việt Nam chính là gia đình tôi, các bậc phụ lão chính là người thân của tôi, phụ nữ Việt Nam chính là chị em tôi. Tôi chỉ có một điều duy nhất phải theo đuổi là đấu tranh để Việt Nam độc lập, thống nhất và dân chủ. Sau khi nguyện vọng hoàn thành, tôi sẽ cáo lão hồi hương, làm một người dân bình thường, du ngoạn núi sông, trồng cây, viết sách”. (2)

    Hồ Chí Minh đã nhiều lần tuyên bố độc thân nghĩa là bác muốn chơi mà không muốn cưới. Nhưng nhiều lần bác đã phá giới, nghĩa là đòi lấy vợ. Chúng ta thử xem một màn rất " bức xúc" của Hồ chủ tịch đòi lấy vợ, lấy Lâm Y Lan người Trung Quốc nhưng các bậc "cha me" dân đã từ chối:, họ bắt "bác" phải giữ trọn lời thề để giữ uy tín cho " bác" và cho "đảng "! 
    Trong phòng họp của Bộ chính trị Trung ương Đảng cộng sản Bắc Việt. Hồ Chí Minh và Lê Duẩn ngồi đối diện nhau, hai bên bố trí chỗ ngồi cho các ủy viên. Tất cả mọi người trong phòng họp đều ngồi lặng im không lên tiếng. Cuối cùng, Hồ Chí Minh đập bàn đứng dậy nói : “Tôi chịu như vậy đủ rồi ! Tôi không muốn sống như một con người khác nữa ! Tôi cũng có những quyền lợi của mình để tự đưa ra quyết định chứ, lần này các anh đừng mong thuyết phục tôi !”
    Lê Duẩn không hề tỏ ra nóng nảy, bình tĩnh điềm đạm nói : “Cụ Hồ, cụ đừng quá nóng vội ! Phàm là làm việc gì thì cũng phải suy tính cho kỹ, không thể không tính trước tính sau, tôi cũng vì lo cho cụ mà muốn khuyên cụ thế này.

    Chẳng phải cụ đã từng nói : vì Việt Nam thống nhất nên trọn đời không lấy vợ ? Câu nói ấy có ảnh hưởng rất lớn, một khi mà cụ đã vi phạm vào lời hứa đó có nghĩa là chúng ta hủy bỏ sự nghiệp giải phóng miền Nam thiêng liêng, như thế không chỉ ảnh hưởng tới hình tượng “người cha già dân tộc” của cụ đối với nhân dân, mà còn làm mất đi thanh danh của Đảng cộng sản Việt Nam
    .(HCM, LVIII )
    (Hồ Tuấn Hùng, ch.IV)

    Những người cộng sản sau này bị cái huyền thoại của Hồ Chí Minh, hoặc vì nịnh bợ mà ca tụng cái thần tượng đất sét của họ Hồ. Năm 1990, Hémery tìm thấy các bức thư của Hồ Chí Minh gửi Tăng Tuyết Minh trong văn thư lưu trữ của mật thám Pháp .

    Tháng 5 năm 1991, sau khi Báo Tuổi Trẻ đăng một bài viết về việc Hồ Chí Minh đã có vợ, tổng biên tập là bà Vũ Kim Hạnh đã bị đình chỉ chức vụ. Năm 2002, William J. Duiker sau viết quyển Ho Chi Minh: A Life đã nói về mối tình Hồ Chí Minh - Tăng Tuyết Minh. Theo phóng viên Mark Baker của tờ Sydney Morning Herald, nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, cơ quan xuất bản chính trị của Đảng và Nhà nước Việt Nam đã gửi thư đến Hyperion Books, nhà xuất bản gốc của quyển này, để xin phép loại bỏ trong bản dịch tiếng Việt một số thông tin "không nhất quán với thông tin trong hồ sơ tài liệu" về Hồ Chí Minh mà Đảng và Nhà nước Việt Nam hiện đang lưu trữ. Tuy NXB Chính trị Quốc gia không nói rõ muốn dời thông tin nào nhưng Duiker cho rằng một số quan chức cấp cao đã không hài lòng khi có nhắc đến đời sống tình cảm riêng tư của Hồ Chí Minh. Ông cũng cho rằng chính quyền Việt Nam muốn tạo ấn tượng rằng Hồ Chí Minh suốt đời sống độc thân và phủ nhận bất cứ mối quan hệ chính thức và nghiêm túc nào của ông với phụ nữ sau khi ông đã trở thành nhà cách mạng. Một ấn bản của tạp chí Far Eastern Economic Review nói về tranh cãi này cũng bị cấm phát hành tại Việt Nam. Nhiều tài liệu của phía Việt Nam cũng phủ nhận việc Hồ Chí Minh đã kết hôn.

    Hồ Chí Minh cũng như ban Nghiên cứu Lịch sử đảng trung ương luôn luôn đề cao rằng ông ta suốt đời sống độc thân, không lập gia đình, để có thể toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân. Sự thật, dù Hồ Chí Minh đi đâu, ở nơi nào, cũng đều có bóng dáng của người đàn bà trong suốt cuộc đời hoạt động của ông. Trong tác phẩm sấm sét này, Hoàng Tranh đã nói về mối tình Hồ Chí Minh-Tăng Tuyết Minh như sau:

    Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sống độc thân suốt thời gian dài lâu nhưng hoàn toàn không phải Người suốt đời không lấy vợ. Thực ra, Hồ Chí Minh từng có một giai đoạn sống trong hôn nhân chính thức. Đó là vào thời kì những năm 20 đầu thế kỉ XX khi người tiến hành công tác cách mạng tại Quảng Châu, Trung Quốc. Nói cụ thể là vào tháng 10 năm 1926, Hồ Chí Minh từng lấy cô gái Quảng Châu Tăng Tuyết Minh làm vợ, đã cử hành hôn lễ, sau khi cưới đã chung sống với nhau hơn nửa năm. Vào tháng 5 năm 1927, sau khi rời Quảng Châu, Hồ Chí Minh đã mất liên lạc với vợ và từ đó không thể gặp lại nữa. Từ đó, đôi tình nhân ấy, người không bao giờ đi bước nữa, người không một lần nào nữa cưới vợ, mỗi người một phương trời, đều sống độc thân cho đến khi từ biệt cõi đời này.”(CXLIV)

    Trong tác phẩm "Hồ Chí Minh Sinh Bình Khảo" 胡志明生平考) Đài Loan xuất bản năm 2008, Hồ Tuấn Hùng đã nói đến những người đàn bà đi qua trong đời Hồ Chí Minh gồm có Bố Lạc Nhĩ,  Bố Nhĩ Đông, Đỗ Lệ Hoa,  Nguyễn Thanh Linh,Tăng Tuyết Minh,  Lâm Y Lan, Đỗ Thị Lạc, Nông Thị Xuân,Ngoài ra nhiều tài liệu cũng đề cập đời sống ái tình của vị thánh Việt Nam. Sophie cho biết Hồ Chí Minh đã yêu Đặng Dĩnh Siêu.  Nguyễn Thanh Linh, Lý Huệ Khanh, Lý Sâm... .

    Tăng Tuyết Minh, người vợ Trung Quốc của Hồ Chí Minh, quê ở huyện Mai tỉnh Quảng Đông, sinh tháng 10 năm 1905 ở thành phố Quảng Châu. Thân phụ của Tuyết Minh là Tăng Khai Hoa, thời trẻ một mình đến Đàn Hương Sơn (Honolulu) lúc đầu làm công, sau buôn bán ; khi tích luỹ được ít vốn liếng, trở về nước tiếp tục buôn bán, gia cảnh khấm khá, vui vẻ. Người vợ đầu của ông Tăng Khai Hoa họ Phan, sinh được hai trai một gái. Sau khi bà Phan bị bệnh mất, ông lấy bà vợ kế họ Lương là người huyện Thuận Đức sinh được 7 cô con gái nữa. Tăng Tuyết Mai là con út, bởi vậy những người quen biết Tăng Tuyết Minh thường gọi cô là “ cô Mười ”. Khi cô 10 tuổi thì người cha qua đời, để lại một chút bất động sản. Bà Lương thị cùng Tuyết Minh sống qua ngày nhờ vào tiền thuê nhà, gia cảnh không được như trước. Năm 1918, mới 13 tuổi, Tuyết Minh đã bắt đầu theo chị là Tăng Tuyết Thanh, một y sĩ sản khoa, học việc hộ lí và đỡ đẻ. Đầu năm 1923, người chị ấy đưa Tăng Tuyết Minh đến Phiên Ngu để học Cao đẳng tiểu học. Nửa năm sau, Tăng Tuyết Thanh chẳng may lìa đời, Tăng Tuyết Minh mất đi nguồn chu cấp, ngay tháng 7 năm ấy phải vào trường Hộ sinh Quảng Châu học tập. Tháng 6 năm 1925, Tăng Tuyết Minh tốt nghiệp trường trợ sản, được ông hiệu trưởng giới thiệu đến trạm y tế La Tú Vân làm nữ hộ sinh. Chính thời gian này Tăng Tuyết Minh làm quen với Hồ Chí Minh lúc ấy đang tiến hành công tác cách mạng ở Quảng Châu.”


    “ (...) Tháng 11 năm 1924, Hồ Chí Minh từ Mạc Tư Khoa đến Quảng Châu, lấy tên là Lý Thuỵ, làm việc tại phòng phiên dịch của cố vấn Borodin, thuộc Hội Lao Liên của Tôn Trung Sơn, trú ngụ tại nhà hàng của ông Bào tại quảng trường Đông Hiệu. Sau những giờ làm công tác phiên dịch, Hồ Chí Minh dành nhiều thì giờ và tâm sức vào công việc liên kết và tổ chức các chiến sĩ cách mạng Việt Nam, sáng lập tổ chức cách mạng Việt Nam, huấn luyện cán bộ cách mạng Việt Nam trong công tác. Trong thời gian ấy, những thanh niên cách mạng Việt Nam đến Quảng Châu trước như Hồ Tùng Mậu, Lâm Đức Thụ đều trở thành trợ thủ đắc lực cho Người. Lâm Đức Thụ cùng người vợ Trung Quốc của ông là Lương Huệ Quần chính là ông mối bà mối cho cuộc hôn nhân của Hồ Chí Minh và Tăng Tuyết Minh.”

    Trong tác phẩm này, Hồ Tuấn Hùng cũng như William Duiker, Sophie Quinn Judge đã nói đến hôn nhân giữa Nguyễn Thị Minh Khai với Hồ Chí Minh. Hai người này yêu nhau từ 1931. Sau Nguyễn Thị Minh Khai lấy Lê Hồng Phong.  Nguyễn Thị Minh Khai tên thật là Nguyễn Thị Vịnh, sinh năm 1910 tại Vinh (Nghệ An), con ông Nguyễn Huy Bình là nhân viên hỏa xa, và là chị của Nguyễn Thị Quang Thái, vợ đầu của Võ Nguyên Giáp. Minh Khai học trường tiểu học Pháp Nam ở Vinh. Năm 1928, Khai gia nhập Tân Việt Cách Mạng Đảng, sau đó qua đảng Cộng Sản Đông Dương, và sang Hồng Kông hoạt động năm 1930.

    Trong Ho Chi Minh, The Missing Years, Sophie Quinn đã dành chương gần chót cho Nguyễn Thị Minh Khai. Bùi Tín khai thác tài liệu của Sophie Quinn Judge trong Về Ba Vị Thánh. Từ năm 1930, ở Hồng Kông, Lý Thụy dạy chính trị cho Nguyễn Thị Minh Khai tại trụ sở chi nhánh Bộ Ðông phương của Quốc tế cộng sản. Sau một thời gian, hai người trở thành vợ chồng, và khi qua Liên Xô tham dự đại hội cộng sản quốc tế ngày 25-7-1935, hai người công khai sống chung. Theo Bà Sophia Quinn-Judge,

    Những nguồn tài liệu của Pháp liên quan đến Minh Khai khiến người ta có thể tin rằng cô này đã có nhiều mối tình với các đồng chí trong thập niên 1930-1940. Ví dụ, năm 1932 sở cảnh sát tin chắc cô ta là người tình của Trần Ngọc Danh, em (tổng bí thư) Trần Phú. Năm 1933 họ lại chặn bắt được một lá thư viết từ Hồng Kông, hình như (seemingly) để cự tuyệt một kẻ theo đuổi mình, trong thư đó nàng tuyên bố “tôi không còn bị ám ảnh bởi ý tưởng lấy chồng hay làm mẹ... Người chồng duy nhất của tôi là Cách Mạng Cộng Sản.” Nhưng khoảng cuối năm 1934, khi đã ở Mạc Tư Khoa, nàng viết mình đã lấy chồng là Lin, bí danh của Hồ lúc ấy. Những tiểu sử gia Việt Nam nói Minh Khai kết hôn với Lê Hồng Phong tại Mạc Tư Khoa vào năm 1935, nhưng không có tài liệu nào thời đó chứng minh.) (3)


    Vào năm 1934, Hồ chí Minh ăn mặc rất sang trọng theo thời trang Âu châu. Lúc trở lại nhà Neiya Zorkaya --một cán bộ nữ-- có dắt theo người đàn bà Việt Nam rất đẹp, ăn mặc sang trọng, dùng loại nước hoa đắc tiền. Hồ chí Minh giới thiệu với mẹ của Neiya Zorkaya, người đàn bà đó là vợ, tên là Phan Lan. Phan Lan là bí danh của Nguyễn Thị Minh Khai. Nguyễn thị Minh Khai có lẽ là người đàn bà để lại trong tâm hồn của Hồ chí Minh nhiều dấu ấn tình cảm nhất.

    Nguyễn thị Minh Khai là người cùng quê với Hồ chí Minh và hai người gặp nhau ở Mạc tư Khoa để công tác chính trị. Nguyễn thị Minh Khai ở chung với một cô gái khác tên là Lý Phương, vào tuổi độ 16. Hàng ngày Hồ chí Minh lui tới để chỉ dẫn cho Minh Khai về chính trị.

    Theo sử gia Tàu, ông King Chen, Hồ chí Minh có giai đoạn hoạt động với tư cách là đảng viên Trung cộng mang tên là Hồ Quang, cho đến năm 1940. Cũng năm 1940, vụ bạo động ở Việt Nam thất bại, Pháp bắt được Nguyễn thị Minh Khai và đem xử bắn vào tháng 8 năm 1941. Một năm sau, tức năm 1942, Hồ chí Minh đến Trung Quốc để giúp Phong trào Giải phóng. Hồ chí Minh, muốn tìm một tên mới để tránh sự theo dõi của mật thám Pháp. Hồ chí Minh nghĩ đến người vợ yêu mến Nguyễn thị Minh Khai. Ông ta muốn gắn liền Minh Khai với ông đến suốt đời nên lấy tên là Minh, vì Minh với Quang có ý nhĩa gần nhau (minh là sáng, quang là ánh sáng); lại thêm chữ Chí vào để nói lên sự chí tình, trọn vẹn.


    Trong hồ sơ tại Liên Xô, bà Minh Khai ghi rõ chồng là "Lin", bí danh của Nguyễn Ái Quốc hồi ấy; cả những phiếu ghi nhận đồ đạc trong phòng riêng hai người tại nhà ở tập thể của cán bộ thuộc Quốc Tế Cộng Sản ghi rõ: hai vợ chồng Minh Khai và "Lin", chung phòng, chung giường, chung đồ dùng... Có tài liệu ghi rõ hai vợ chồng nầy cũng chung sống ở Hồng Kông một thời gian... Sau, Nguyễn Thị Minh Khai thành vợ bé của Lê Hồng Phong. Ðây không thể nào là tài liệu giả..." Nguyễn Thị Minh Khai là chị ruột của Nguyễn Thị Quang Thái. Bà Thái là vợ đầu của Võ Nguyên Giáp.(2)


    Các sơn nữ miền Bắc rất đẹp, Hồ Chí Minh lúc đầu hoạt động ở núi rừng Việt Bắc, cho nên Hồ Chí Minh đã kết nạp nhiều cô gái Nùng, người Tày tuổi khoảng 15. .Ngoài những giai nhân đã kể còn có Nông Thị Ngát .
    Wikipedia viết về Nông Thị Trưng ( Nông Thị Ngát) như sau:


    Bà có tên thật là Nông Thị Bày, có tài liệu ghi Nông Thị Ngát, quê ở huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng. Theo hồi ký của thiếu tướng Lê Quảng Ba, Nông Thị Trưng là đội viên du kích trẻ tuổi nhất trong đội du kích đầu tiên của tỉnh Cao Bằng, do Lê Thiết Hùng chỉ huy.  Trong vòng tám tháng vào năm 1941-1942, bà đã làm giao liên cho "Già Thu", bí danh của Hồ Chí Minh lúc đó. Tên Trưng của bà do "Già Thu" đặt, có ý muốn bà noi gương Trưng Trắc, Trưng Nhị. Cùng với các đảng viên và nhân dân Hà Quảng có điều kiện ở gần Hồ Chí Minh, bà đã được ông trực tiếp dạy văn hóa. Bà được Hồ Chí Minh kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương ngày 25 tháng 12 năm 1941. Bà là một trong những phụ nữ đầu tiên của Cao Bằng sớm tham gia cách mạng, và trở thành một trong những cán bộ, đảng viên cốt cán của Ðảng Cộng sản Việt Nam



    Tờ báo Xuân Phụ Nữ năm Đinh Sửu 1997 xuất bản trong nước một bài viết có tựa đề "Cô Học Trò Nhỏ của Bác Hồ" được tác giả Thiên Lý viết theo lời kể của chính Nông Thị Trưng có đoạn:

     "Tháng 7 năm 1941, được tin (chính quyền) châu Hà Quảng đưa lính cơ tới bắt, ngay đêm ấy tôi trốn ra rừng, rồi được Châu uỷ đem qua Bình Mãng (Trung Quốc) lánh nạn tại nhà một đảng viên Đảng Cộng sản Trung Quốc. Một hôm đồng chí Lê Quảng Ba và Vũ Anh đến đón tôi từ Trung Quốc về Pắc Bó gặp Bác.
    Về Pắc Bó đã nửa đêm, anh Đại Lâm người giữ trạm đầu nguồn đưa ngay chúng tôi đi gặp "ông Ké". Lội ngược suối càng đi nước càng sâu, khi đến thác thứ ba, anh Đại Lâm thổi sáo, từ trên thác có thang tre thả xuống. Trèo thang lên, thấy một cái lán dựng ngay trên bờ suốị. Trong lán có ông cụ ngồi đọc sách. Tôi chắp tay "Cháu chào cụ ạ". Ông cụ nhìn lên hai mắt rất sáng, ân cần bảo: "Cháu đến rồi à, cháu ngồi xuống đây nói chuyện. " Tôi nhìn xuống sàn, thấy toàn cây to bằng bắp chân. Cụ bảo hai lần tôi mới dám ngồi. Cụ tỉ mỉ hỏi gia cảnh, rồi khuyên tôi: "Từ nay cháu đã có một gia đình lớn là gia đình cách mạng, đừng luyến tiếc gia đình nhỏ nữa. Cháu cặm cụi làm ăn cũng không đủ để nộp sưu thuế đâu. Mình lấy lại được nước rồi từng gia đình sẽ được đàng hoàng. Từ nay ai hỏi thì cháu nói mình là cháu chú Thu, tên Trưng". Bác đặt tên ấy là muốn tôi noi theo gương bà Trưng."


    Nông Thị Trưng đã học tập lý luận cách mạng cùng "Già Thu" trong khoảng 8 tháng.

    "Từ đấy tôi ở lại lán anh Đại Lâm, mỗi ngày vào lán của Bác một giờ để học tập. Bác dạy cho tôi từ chuyện thế giới, chuyện cộng sản chủ nghĩa đến cả những cách ứng xử thường ngày như "Đừng làm một việc gì có thể khiến dân mất lòng tin. Mượn một cái kim, một con dao, một buổi là phải đem trả. Trong ba lô nếu có màn, phải để ở ngoài cửa, hỏi xem chủ nhà có bằng lòng mới đem vàọ. Cháu là nữ, trước bàn thờ có cái giường để các cụ ngồi ăn cỗ, cháu không được ngồi...". Tám tháng được Bác chỉ dạy tôi học được hơn cả mấy chục năm học lý luận tập trung sau này".

    Đoạn hồi ký trên còn được đăng tại Tạp chí Công nghiệp
    Khi biết Nông Thị Trưng là người ham học, hàng ngày lấy than và que để viết chữ và vẽ hình, Hồ Chí Minh đã gửi cho bà một số vở, bút viết, với bài thơ mà sau này được đưa vào sách giáo khoa Việt Nam:

    Vở này ta tặng cháu yêu ta
    Tỏ chút lòng yêu cháu gọi là
    Mong cháu ra công mà học tập
    Mai sau cháu giúp nước non nhà " (Wikipedia)


    Trước năm 1940 Hồ Chí Minh hoạt động ở rừng Việt Bắc, ttrong rừng sâu ở gần biên giới Việt-Hoa và ẩn trốn trong hang Pắc Pó. Hồ Chi Minh được sự chăm lo của một nữ hộ lý người dân tộc Tày tên Nông Thị Ngát (Hồ Chí Minh sửa tên cho bà ta là Nông thị Trưng). Hồ Chí Minh quan hệ tình dục với Nông Thị Ngát thường xuyên vì Ngát ở chung với Hồ trong hang Pắc Pó. Năm 1940 Nông Thị Ngát sanh được đứa con trai là đặt tên là Nông Đức Mạnh cựu Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam.
    Lý do câu chuyện tình đặc sắc này được nổi bật những năm sau này là do cuộc phỏng vấn của tờ báo Xuân trong nước vào khoảng năm 1997. Nhà báo có phỏng vấn bà Nông Thị Ngát, một chứng nhân sống nói về “Bác Hồ”. Bà Ngát đã không dấu diếm chi cả những gì đã xảy ra trong thời gian HCM tại hang Pac Bo vào đầu thập niên 40. Bà kể hằng ngày Ngác đến “học tập” với HCM ròng rã cả năm. Hồ căn dặn Ngát không nên gọi Hồ bằng “Bác” mà hãy gọi là “Chú Thu” và xưng “Cháu”. Thế thì sau đó chú cháu tiêp tục học tập…

    Được biết sau thời gian rời Pac Bo, HCM cướp chính quyền thành công, trở thành người lãnh tụ chính thức của Đảng Cộng Sản Việt Nam, người nữ cán bộ gương mẫu mà Hồ yêu quý, tức Nông Thị Ngát, lại được cất nhắc làm Chánh Án Toà Án Nhân Dân tỉnh Cao Bằng…Ông Hồ yêu quý Ngát đến độ đặt cho người nữ cán bộ này một tên nữa là Nông Thị Trưng, ý giống như Trưng Trắc, Trưng Nhị vậy. Nông Thị Ngát là ai cũng đã được người dân trong nước bàn tán. “Chú Thu” và “Cháu Trưng” cũng đã được nhắc tới trong các sách tuyên truyền của cộng sản, nhất là các tác giả Trần Khuê, Thép Mới…


    Thép Mới kể lại trong “Năng Động Hồ Chí Minh” (4)  rằng sau 20 năm ngày rời Pac Bo, ông HCM trở lại, 1961, lúc này coi như sự nghiệp khá thành công, ông có thời giờ về thăm lại người cũ, cảnh xưa. Khi vào nhà thăm gia đình bà Ngát, HCM tiếp xúc với ông Dương Đại Lâm, người mà trước đây HCM đã gởi gắm Ngác vào gia đình (không nhắc Ngác đang ở đâu), các cháu vây quanh HCM thân mật. Tác giả còn nhấn mạnh một trong các cháu đã trở thành “thanh niên tuấn tú” góp phần xây dựng đất nước.
    Cùng sách trên, Thép Mới ghi : “Bác trực tiếp hỏi chuyện, nghe kể về hoàn cảnh gia đình và bản làng đau khổ, rất thương, nhận làm cháu nuôi, đặt cho bí danh là Trưng, Nông Thị Trưng. Trưng ở với vợ chồng Đại Lâm, tên tục là Sù, hàng ngày được đến lán Bác một giờ để Bác chỉ bảo.”…Như vậy rất rõ, Nông Thị Ngác có bí danh là Nông Thị Trưng.
    Vào tháng 4, 2001, Nông Đức Mạnh từ một người chưa thâm niên về chính trị lại được đưa lên làm Tổng Bí Thư Đảng. Tin cho rằng Nông Đức Mạnh là con của HCM lan rộng khắp nơi, từ trong nước ra đến hải ngoại. Khi có lời đồn này dĩ nhiên phải có sự bắt nguồn nào đó đi ra. Được tin này báo ngoại quốc Time đã làm cuộc phỏng vấn hỏi Nông Đức Mạnh có phải là con của HCM? Ông Mạnh không trả lời xác quyết là phải hay không, nhưng nói là tại Việt Nam ai cũng là con cháu của Bác Hồ. Câu trả lời sau chót “chắc chắn ông ta không phải cha ruột của tôi” cũng không đủ tin Nông Đức Mạnh nói bằng sự thât.


    Từ câu trả lời trên và thái độ dấu diếm thân thế gia đình, cùng với vai trò lãnh đạo tối cao một cách đi ngang, quần chúng dường như ai nấy đều ngầm nghi vấn Mạnh có phải là con của HCM? Vậy thì làm sao biết Mẹ của Nông Đức Mạnh là bà nào? May mắn thay cho những ai muốn tìm hiểu Nông Đức Mạnh là ai, vì chưa bao giờ Đảng Cộng Sản Việt Nam hay Nông Đức Mạnh tiết lộ với báo chí hay bất cứ ai biết về tên họ cha mẹ của Mạnh một cách rõ ràng, qua tài liệu sau đây.

    Trong “Ho Chi Minh”, tác giả William Duiker, trang 575, viết: “In April 2001, the ralatively unknown government official Nong Duc Manh, widely rumored to be the illegitimate son of Ho Chi Minh, was elected general secretary of the VCP (Vietnamese Communist Party)- 14″ Số 14 để người đọc lật ra sau cuốn sách đọc tiếp footnote 14: “Nong Duc Manh has denied these rumors, but he concedes that his mother, a member of the Tay ethnic minority, served as Ho’s servant after the latter’s return to Vietnam during the early 1940s…”

    Dịch: Vào tháng 4, 2001, người vô danh tên Nông Đức Mạnh chính thức nhậm chức trong cơ quan chính quyền, dư luận xôn xao bàn tán rộng rãi cho rằng Mạnh là con trai rơi của Hồ Chí Minh, và ông ta đã được chọn làm Bí Thư Đảng Cộng Sản Việt Nam.
    Nông Đức Mạnh phủ nhận những tin đồn này, nhưng ông ta lại công nhận rằng mẹ ông, một thành viên của dân tộc thiểu số Tầy, bà là người phục vụ ông Hồ sau khi ông Hồ trở về Việt Nam vào đầu thập niên 1940.

    Nông Đức Mạnh sinh vào đầu thập niên 40. Báo Time phỏng vấn Mạnh vào 2002 và ghi ông ta được 61 tuổi. Như vậy thì ông Mạnh phải ra đời vào cuối 1941 hoặc 1942 . Sau ngày sách của Duiker xuất bản, 2000, và cuộc phỏng vấn của báo Time, trang web “Đảng CSVN” sửa tiểu sử Nông Đức Mạnh lung tung…Vào 2001, chính người viết có lần vào trang này thấy ghi rõ Nông Đức Mạnh con của “nhà cách mạng Nông Văn Lai và bà Hoàng Thị Nhị”, nhưng sau đó thì trống trơn không ghi gì cả . Biết đâu nhân vật Nông Văn Lai và Hoàng Thị Nhị này cũng giống như Lê Văn Tám mà Trần Huy Liệu đã nặn ra để lừa gạt mọi người trong nhiều thập niên qua? Hay Tạ Thị Kiều, một đặc công gái tưởng tượng, mà Xuân Vũ cũng một thời ca ngợi khi ông còn ở miền Bắc?

    Rõ ràng câu trả lời của Nông Đức Mạnh trong sách của giáo sư Duiker và báo Time đã phần nào cho người đọc một kết luận về thân thế của ông ta. Mạnh đã trả lời mẹ là người Tầy, dân tộc thiểu số, phục vụ cho HCM trong thời gian Hồ trở về VN vào đầu thập niên 40.(HCM, CLII)

    Tác giả Thép Mới trong tác phẩm trên cũng viết rằng "Bác giới thiệu với bản làng người nữ cán bộ hôm qua cùng về với Bác:- Đây đồng chí Lạc thay cháu Nông Thị Trưng về đây ở với đồng bào !"
    Về bà Đỗ Thị Lạc, Trần Trọng Kim cho biết: "Về khoảng cuối năm 1944, Việt Nam Cách Mệnh Ðồng Minh Hội lại dời về tỉnh Quảng Tây, và cho ông Hồ Chí Minh về Bách Sắc để trù liệu kế hoạch nhập Việt. Sau đó, Hội cho ông Minh cùng 22 đảng viên, phần nhiều là người đảng Phục Quốc, về nước để khởi sự hành động. Trong số 22 người ấy có một nữ đảng viên tên là Ðỗ Thị Lạc là người sau có đứa con gái với Hồ Chí Minh. Về sau, thấy người ta nói khi đến địa hạt Bắc Giang, có ba đảng viên trong 22 người ấy bị giết vì không chịu theo cộng sản." (5)

    Theo Nguyễn Y Vân, gần đây, trên hệ thống mạng, có luân lưu một vài tài liệu mà ta chưa thể kiểm chứng một cách chắc chắn, dù chính chúng tôi đã được tiếp chuyện nhiều lần với một Tata đã lớn tuổi (trên 70), khi nghe kể về bài viết này thì Tata này chỉ nói : "Chuyện ấy đúng đấy ! Ngày xưa Tata cũng thế !"
    Trước đây mấy năm, vị Tata này có lần đã kể với chúng tôi và một vài người nữa là hồi 1947-1950, khi Tata này khoảng 14, 15 tuổi đã được "tuyển" vào toán thiếu nhi luôn "quấn quýt" bên "Bác". Toán này có hai nhiệm vụ : ban ngày, mỗi khi "Bác" muốn đi ngang hay vào một làng nào thì các cháu phải vào trước nghe ngóng tình hình ; còn nhiệm vụ buổi tối thì vị Tata này chỉ vừa cười vừa nói : "Còn phải hỏi".
    (CII)

    Ngày nay có bài viết của Huỳnh Thị Thanh Xuân nhan đề : "Lần gặp Bác Hồ tôi bị mất trinh" với mấy tấm ảnh rất đặc biệt, ký tên Huỳnh Thị Thanh Xuân. được đăng trên các mạng, nội dung kể lại câu chuyện năm 1964, một nhóm thiếu nhi thuộc những "gia đình cách mạng" ở miền Nam được "tuyển" ra Bắc "tham quan" và gặp Bác Hồ. Huỳnh Thị Thanh Xuân, 15 tuổi, là giao liên cho biệt động thành Đà Nẵng và huyện uỷ Điện Bàn, Đại Lộc. Sau khi gặp Bác, các cháu gái lần lượt đều được Bác ưu ái tiếp riêng từng đứa trong "căn nhà sàn" và đều bị Bác… phá trinh "gây giống" ngay trong đêm.
    Chúng ta không biết thực hư thế nào nhưng cơ bản câu chuyện có phần xây dựng trên hiện thực xã hội chủ nghĩa. Từ "Về R" của Kim Nhật, qua Thép Mới (Năng động Hồ ChíMinh) đến Nguyễn Thế Anh ( Liên Xô cung cấp gái cho HCM), chúng ta thấy cộng sản chuyện việc cung cấp gái cho các lãnh tụ.

    Theo Nguyễn Y Vân, bài viết vào tháng 10/2006 của tác giả Hoàng Dũng, cán bộ VP trung ương (thời Nguyễn Văn Linh làm Tổng Bí thư) thì sẽ thấy dưới chế đô CS, nhất là CSVN, chuyện gì cũng có thể xảy ra. Theo Hoàng Dũng (do lời kể lại của Nguyễn Văn Linh), "Bác Hồ" rất "ưa thích" gái Nam Bộ. Do vậy, Bộ Chính trị thời ấy do Lê Duẩn làm Tổng Bí thư, đã yêu cầu Xứ bộ miền Nam tuyển một số cháu gái trẻ đẹp để đưa ra Bắc "phục vụ" Bác. Sau khi "tuyển" xong, chính Võ Văn Kiệt là người sẽ hộ tống "các cháu" ra Bắc... Nhưng vì chiến tranh trở nên ác liệt, đường đi bị nghẽn nên chưa thể đưa ra ngay được. Và trong lúc chờ đợi, chính Kiệt đã "qua mặt Bác" làm cho một "cháu" đẹp nhất trong bọn có họ Phan mang bầu .(CLII)

    Sau cuộc sống chung tạm bợ với Ðỗ Thị Lạc , Hồ Chí Minh bị cuốn hút vào những biến chuyển lịch sử cho đến năm 1954, ông Hồ về Hà Nội. Theo tài liệu của Vũ Thư Hiên và Nguyễn Minh Cần, bộ chính trị đảng Lao Ðộng đã đưa một cô gái thuộc sắc tộc Nùng ở Cao Bằng là Nông Thị Xuân (có sách viết Nguyễn Thị Xuân) về phục vụ Hồ Chí Minh năm 1955. Lúc đó, ông Hồ khoảng 65 tuổi và bà Xuân có lẽ khoảng trên dưới 22 tuổi, khá xinh đẹp:.
    Trong thời gian Hồ chung sống với Nông Thị Xuân, đảng Lao Ðộng còn có ý định đưa cô Nguyễn Thị Phương Mai, tỉnh uỷ viên tỉnh Thanh Hóa, về Hà Nội để làm vợ Hồ Chí Minh. Cô Phương Mai đòi công khai hóa cuộc hôn nhân giữa hai người, thì bị từ chối, nên cô rút lui. (6) .

    Trên kia đã nói đến những người tình, người vợ Á Đông của Hồ Chí Minh. Ngoài ra ông cũng có những người tình mắt xanh tóc nâu hay bạch kim. Năm 1990, trong tác phẩm "Hồ Chí Minh, sự thật về thân thế và sự nghiệp ", giáo sư Nguyễn Thế Anh cho biết khi hành nghề nhiếp ảnh ở Paris, Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh) đã gởi thư tỏ tình với cô Bourdon ngày 10-5-1923, nhưng cô Bourdon viết thư ngày 11-6-1923 từ chối mối tình của Nguyễn Ái Quốc. Giáo sư Nguyễn Thế Anh còn trưng dẫn nhiều tài liệu cho thấy khi qua Moscow, nhà cầm quyền Liên Xô đã cung cấp cho Nguyễn Ái Quốc một "người vợ".(7)

    Cựu hoàng Bảo Đại cũng viết rằng Hồ Chí Minh có một người vợ Nga và có chung một người con gái, nhưng ông ta không bao giờ nhắc đến . Sở dĩ Cựu hoàng biết chuyện này là khi làm Cố vấn cho chính phủ Liên Hiệp, trong những dịp đi « công tác » với Võ Nguyên Giáp vào năm 1945 và Giáp đã kể lại.(8)

    Theo Thành Tín (tức Bùi Tín) t "Theo tài liệu Pháp, khi trẻ tuổi, làm thợ ảnh (tại Paris), ông Hồ có quan hệ với một cô đầm tên Marie Bière nào đó…".(9) Bùi Tín theo tài liệu của Sophie Quinn Judge đã nói đến Vera Vasilieva cô gái Nga có con riêng, đã là tình nhân của già Hồ trong khoảng 1934.(10)
    Còn nhiều giai nhân nữa, nhưng chứng ấy tên tuổi cũng đã là phong phú cho cuộc đời lãng tử Hồ Chí Minh.
    Sau này nhiều tin tức xì ra, Mạch Quang Thắng biện hộ:

    Nếu Hồ Chí Minh có vợ con thật thì Hồ Chí Minh không thể giấu được trong ngần ấy năm. Giấu làm sao được trong con mắt của hàng triệu, hàng triệu con người giữa thế gian, ở đất nước Việt Nam và cả ở trên thế giới. Người bình thường đã khó giấu, huống chi Hồ Chí Minh lại là một người nổi tiếng, là con người của công chúng, thì lại càng khó giấu hơn. Tục ngữ Việt Nam có câu: “Cái kim trong bọc lâu ngày rồi sẽ lòi ra”. Đã rất lâu ngày, nhưng cái bọc không thấy lòi ra một cái kim nào cả. Làm gì có cái kim nào. Còn miệng thế gian thì càng không thể nào che được.(HCM, CXLIII )


    Nhân dân ta không quá khắt khe nhưng cũng không phóng túng. Không ai chê trách vua Bảo Đại dù ông năm thể bảy thiếp. Nhưng dân chúng cười cợt các ông cộng sản như Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Trần Văn Trà, Phạm Văn Trà:

    "Khá khen cho Phạm Văn Trà,
    Năm thê, bảy thiếp cũng là trung ương."


    Tại sao người ta cười Phạm Văn Trà mà không chế riễu Bảo Đại, là vì các ông cộng sản luôn luôn nói đạo đức cách mạng, chống tham ô, hủ hóa...nhưng lại tham nhũng, dâm ô! Qua bao cơn giông bão, ta mới thấy các giáo sĩ Tin Lành là khôn. Đã là con người thì ai cũng có tham dục. Muốn lấy vợ, lấy chồng thì ra khỏi nhà chùa, nhà thờ sao lại đòi mang áo tu mà còn muốn làm tình? Buồn cười thay, trong lúc các sư và các linh mục, giám mục thực hiện dâm dục và đòi lấy vợ thì Hồ Chí Minh lại oang oang muốn theo đuổi con đường khổ tu diệt dục?
    Cái khôi hài là ở chỗ đó! Và cái khôi hài hơn nữa là Hồ Chí Minh nói muốn hy sinh hạnh phúc gia đình mà thực tế có ít nhất cũng năm sáu bà vợ!Tại sao Hồ Chí Minh lại dối trá? Tại sao ông muốn đeo mặt nạ thánh thần để lừa dối nhân dân? Trong khi Marx, Lenin, Stalin, Mao Trạch Đông sống đời bình thường, không lẽ trò lại muốn tỏ ra đạo đức hơn thầy?

    Ác ôn hơn nữa, tại sao ông Hồ và đảng Cộng sản lại giết Nông thị Xuân? Yêu hoa sao lại bẻ cành? Không lẽ Hồ Chí Minh là con yêu râu xanh? Thần tượng đất sét sau cơn ngập lụt nay đã rã rời áo mão, râu ria rơi tả tả xuống bùn. Nguyễn Đăng Mạnh viết:

    Chung quanh Hồ Chí Minh, đến nay vẫn còn rất nhiều điều bí ẩn khôngbiết đến bao giờ mới được làm sáng tỏ.
    - Chẳng hạn, chuyện vợ con thế nào? Trung Quốc đã công bố Hồ Chí Minh kết hôn với Tăng Tuyết Minh. Rồi chuyện cô Hà Thị Xuân người dân tộc
    Tày và các con (Trung và Trinh gì đó). Ông Trần Độ cho biết, vì cô Xuân cứ đòi chính thức hoá, người ta bèn giao cho Trần Quốc Hoàn thủ tiêu cả ba chị em.
    Chuyện này nhiều người biết. Có người đã viết ra như Vũ Thư Hiên trong cuốn Đêm giữa ban ngày. Riêng tôi được biết do giáo sư Ngô Thúc Lanh được ông Văn Tân kể cho nghe và truyền đạt lại, hai là do một giáo sư dạy Sử ở Đại học Sư phạm Hà Nội, ba là Dương Thu Hương, bốn là ông Trần Độ. Nhưng gần đây có người điều tra ra vụ việc này rất tỉ mỉ, rõ ràng, và công bố cụ thể trên internet: cô Xuân bị thủ tiêu vì hai lý do: một là cô đòi chính thức hoá: điều này phải do Đảng quyết định, mà Đảng thì không thể chấp nhận. Hai là cô bị Trần Quốc Hoàn hãm hiếp nhiều lần. Hoàn tuy đã đe doạ cô, nhưng vẫn sợ bị cô tố cáo. Hắn sai Tạ Quang Chiến đập chết, rồi ban đêm, đặt xác cô ở quãng đường từ Nhật Tân đi Chèm, bố trí một xe ô tô cán lên, tạo ra một vụ tai nạn giao thông giả. Còn ba chị em cô Xuân là ba chị em họ. Một cô tên Nguyệt, một cô tên Vàng. Hai cô này cũng bị thủ tiêu vì đều biết chuyện. Nguyệt mất tích, không rõ bị thủ tiêu ở đâu. Còn cô Vàng thì bị đập chết và quăng xác xuống sông Bằng Giang, Cao Bằng
    .(11)

    Cựu đại tá QĐND Bùi Tín, nguyên phó TBT báo Quân đội Nhân Dân và báo Nhân Dân từng có nhiều dịp tiếp xúc với HCM đã trả lời phỏng vấn của Trà Mi:

    “Về việc họ ca ngợi đạo đức ông HCM, tôi nghĩ tuổi trẻ cần biết rõ là ông Hồ trong hoạt động cách mạng có sai lầm lớn là gỉa dối nhiều lắm. Một ví dụ đơn giản là ông ta tự viết ra quyễn sách nói về tiểu sử của mình, ký tên là Trần Dân Tiên… trong đó còn ghi là HCM không có vợ con, suốt đời chỉ biết nghĩ đến dân tộc, thế nhưng thật ra, ông ta có nhiều vợ…
    “Điều này đã được chứng minh đầy đủ như ông ta cưới bà Tăng Tuyết Minh ở Quảng Châu, có ghi rõ ngày giờ, giấy hôn thú, ảnh và thơ từ cơ mà”. (RFA online ngày 19-5-2007)

    Chính vì ông HCM ghi rằng mình “không có vợ con, suốt đời chỉ biết nghĩ đến dân tộc”, tự thần thánh hóa mình một cách dối lừa nên người ta cốt “bới móc” để tìm ra sự thật và vì việc này mà bà Vũ Kim Hạnh TBT báo Tuổi Trẻ bị mất chức.
    (HCM,CXLVI)


    Ôi! Vì muốn tôn thờ tượng đất mà Hồ Chí Minh và đảng Cộng sản liên tiếp giết người vô tội ? Nếu việc giết người là do Trần Quốc Hoàn, vậy thì Đảng Cộng Sản vì dân, vì nước ở đâu? Một Lãnh tụ liêm minh công chính ở đâu? Nhân dân chỉ biết một vụ Nông Thị Xuân, còn bao nhiêu vụ nữa mà nhân dân ta không biết. Một thường dân giết người thì pháp luật xử tội gì? Không lẽ Trần Quốc Hoàn, Hồ Chí Minh, Lê Duẩn giết người mà vẫn ung dung ngoài vòng pháp luật. Tại sao Trần Quốc Hoàn dám hiếp vợ Hồ Cbhí Minh? Chế độ như vậy, xã hội như vây cũng là do Hồ Chí Minh và đảng cộng sản gây đựng nên. Hồ Chí Minh, đảng Cộng sản và cái lối đắp thần tượng giả, cùng với cách tuyên truyên gian dối và hành động tàn ác phải chịu trách nhiệm trước nhân dân và lịch sử!


    Qua các tài liệu trên, chúng ta thấy những điểm sau:


    + 1. Những lãnh tụ cộng sản là những tên đa dâm. Hồ Chí Minh thay vợ như thay áo. Ông lấy người ta có con rồi bỏ mặc. Không lẽ ông không nhớ đến người xưa. Ông là đảng trưởng, là chủ tịch, thiếu gì chân tay để sai đi tìm kiếm và tiền bạc để cung cấp. Nguyễn Y Vân gọi ông là kẻ " chơi chạy" thì rất đúng.
    +2. Tên cộng sản nào cũng tham dâm, thế mà lúc nào cũng la hét " đạo đức cách mạng". Để phục vụ lòng tham dâm của lãnh tụ, bọn cộng sản đàn em đã làm công tác " ma cô" rất tích cực".
    +3. Hồ Chí Minh thô lỗ, và dâm dục. Khi gặp cô Nguyễn Thị Hằng , câu hỏi đầu tiên của vị Chủ tịch nước là: “Cháu có buồn đi tiểu, Bác chỉ chỗ cho mà đi”(Nguyễn Đăng Mạnh).

    +4. Hồ Chí Minh mắc bệnh nhi dâm, ông thích các thiếu nữ tuổi 15. Các nước đều kết án những kẻ xâm phạm trẻ dưới 18. Hồ Chí Minh còn thích một đám thiếu nữ vây quanh, như là cung nữ, cung phi trong cung cấm vua chúa trong khi ông và đảng cộng sản kết tội vua chúa. Ông coi phụ nữ là trò chơi trong khi ông oang oang tuyên bố giải phóng phụ nữ!

    +5. Bệnh tham dâm, gian ác đã truyền sâu trong tập thể cộng sản. Đó là bản chất chứ không phải hiện tượng. Nguyễn Đăng Mạnh trong Hồi Ký của ông đã nhận xét: Cuộc gặp Vũ Kỳ không giúp tôi biết thêm gì về Hồ Chí Minh. ấn tượng để lại chỉ là hình ảnh của chính Vũ Kỳ. Ông bắt chước tác phong của cụ Hồ từ cách ăn mặc, cách nói năng. Có cái áo Tôn Trung Sơn khoác ngoài không mặclại vắt lên vai. Đi guốc. Câu đầu tiên ông hỏi chúng tôi: “Các đồng chí có bao nhiêu nữ?”
    Sau này, XHCN phát triển thành cà phê ôm, gái bao của các đại gia là do từ "đạo đức bác Hồ" xây dựng một cách " hoành tráng" mà thành, còn trước 1975 tại miền Nam, và trước 1945 trên toàn quốc không có được một phần trăm nét phồn thịnh như vậy!

    +6. Đảng cộng sản đã dùng gái để thực hiện "mỹ nhân kế ' . Trung quốc và Nga đã dùng gái để sai khiến Nguyễn Ái Quốc. Bọn Lê Duẩn, Lê Đức Thọ cũng dùng gái để kiếm chế các ôn g trong bộ chính trị.

    +7. Chủ nghĩa cộng gian manh, tàn ác đã dùng mưu kế xảo quyệt lừa bịp nhân dân, và che đậy những sự thật.

    +8. Chủ nghĩa cộng sản xây dựng trên dối trá và thủ đoạn tàn ác, và họ đã xây lên một chế độ xấu xa, tàn bạo, vô tổ chức, bất nhân, bất nghĩa  cụ thể là vụ Nông Thị Xuân và cuộc đời tình ái của Hồ Chí Minh.

    ______

    CHÚ THÍCH


    (1).Hồ Tuấn Hùng. Hồ Chí Minh Sinh Bình Khảo, chương I, thiên IV)
    (2). Hồ Chí Minh toàn tập”, tập V,  NXB Chính trị Quốc gia, trang 171.
    (3). Thành Tín (Bùi Tín ). "Về Ba Ông Thánh",California, 1995, tr. 136.,. Sophie Quinn Judge, Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Diên Vỹ và Hoài An Diễn đàn www.x‐cafevn.org, tr.196-198
    (4).  Thép Mới. "Năng động  Hồ Chí Minh ". Bút ký,  Chính trị Quốc gia. 1990, tr.143.
    (5). Trần Trọng Kim, Một cơn gió bụi, Vinh Sơn, Sài Gòn, 1969, tr. 75. 
    (6). Nguyễn Minh Cần,  Vài mẩu chuyện về cuộc đời HCM.(HCM, LI).

    (7). Nguyễn Thế Anh, "Hành trình chính trị của Hồ Chí Minh", đăng trong Hồ Chí Minh, sự thật về thân thế và sự nghiệp, một nhóm tác giả, Nxb. Nam Á, Paris, 1990, tr. 25.
    (8).Bảo Đại, Con rồng Việt Nam – Hồi ký chính trị 1913-1987, Nguyễn Phước tộc xuất bản. 1990, tr. 205.
    (9). Bùi Tín. "Về Ba Ông Thánh", xuất bản tháng 5/1995, trang 149.
    (10).Bùi Tín, sđd, trang 151)
    (11). NGUYỄN ĐĂNG MẠNH * HỒI KÝ- Hồ Chí Minh.